Bản án về tội không chấp hành án (không giao con cho mẹ theo bản án hôn nhân) số 08/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 08/2023/HS-PT NGÀY 13/02/2023 VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN

Ngày 13/02/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 365/2022/TLPT-HS ngày 12/12/2022, đối với bị cáo Trần Văn T, do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 68/2022/HS-ST ngày 28/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang;

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Văn T, sinh năm 1992. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh trú quán: Thôn H, xã B, huyện L, tỉnh B.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không.

Con ông Trần Văn T, sinh năm 1962.

Con bà Phạm Thị C, sinh năm 1969.

Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 02.

Vợ: Lê Thị Phương A, sinh năm 2002 (Đã ly hôn).

Bị cáo có 01 con là Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021. Tiền án: Chưa.

Tiền sự: Ngày 11/3/2022, bị Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: "Không thực hiện việc giao cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021 cho chị NLQ2...".

Bị cáo được dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú". Hiện tại ngoại (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T: Ông Trần Văn Thủy, sinh năm 1962 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn Hồ Sơn 2, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị NLQ1, sinh năm 1990 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

- Chị NLQ2, sinh năm 2002 ( Có mặt).

Địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện L, tỉnh B.

* Người làm chứng:

Ông NLC, sinh năm 1964 ( Có mặt).

Địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện L, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 8/2020, Trần Văn T, sinh năm 1992 trú tại thôn H, xã B, huyện L, tỉnh B kết hôn với chị NLQ2, sinh năm 2002 trú tại thôn B, xã B, huyện L và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L. Sau khi kết hôn, chị P về chung sống với Trần Văn T tại thôn Hồ Sơn 2, xã B, huyện L. Quá trình chung sống, T và chị P sinh được 01 con chung là cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021. Do mâu thuẫn vợ chồng, ngày 13/9/2021, chị P bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn Bảo Lộc 1, xã B sinh sống, còn cháu Trần Thị Anh T ở với T. Sau đó, chị P đã làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện L đề nghị giải quyết ly hôn, con chung.

Tại Bản án số 94/2021/HNGĐ-ST ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện L và Bản án số 43/2021/HNGĐ-PT ngày 27/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định: “Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị NLQ2 và Trần Văn T; Giao cho chị NLQ2 nuôi con là Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021...”. Bản án có hiệu lực pháp luật nhưng T không tự nguyện thi hành bản án nên ngày 06/01/2022, chị P có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện L thi hành bản án trên.

Ngày 13/01/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L ra Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 127/QĐ-CCTHADS, buộc Trần Văn T giao cho chị NLQ2 nuôi con chung là cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L đã giao Quyết định trên cho Trần Văn T theo quy định.

Quá trình tổ chức thi hành án, trong các ngày 21/02/2022, 25/02/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L đã phối hợp với chính quyền xã B, tổ chức, chính trị- xã hội tại địa phương đến nơi ở của Trần Văn T tại thôn Hồ Sơn 2, xã B giải thích, vận động, đôn đốc, thuyết phục T tự nguyện chấp hành bản án, giao cháu Trần Thị Anh T cho chị P nhưng T không tự nguyện thi hành.

Ngày 25/02/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L ra Quyết định cưỡng chế thi hành án, buộc Trần Văn T giao cháu Trần Thị Anh T cho chị NLQ2 nuôi dưỡng kể từ 08 giờ 30 phút ngày 09/3/2022, đồng thời thông báo thi hành án cho Trần Văn T đúng 08 giờ 30 phút ngày 09/3/2022 phải đưa cháu Trần Thị Anh T đến Ủy ban nhân dân xã B để thực hiện việc giao cháu Trần Thị Anh T cho chị NLQ2 trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, tuy nhiên, T không chấp hành.

Ngày 09/3/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với Trần Văn T, đồng thời đề nghị Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang ra quyết định xử phạt hành chính đối với Trần Văn T. Ngày 11/3/2022, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn T về hành vi: "Không thực hiện việc giao cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021 cho chị NLQ2...".

Ngày 22/4/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L tiếp tục phối hợp với chính quyền xã B, tổ chức, chính trị-xã hội tại địa phương đến nơi ở của Trần Văn T tại thôn Hồ Sơn 2, xã B giải thích, vận động, đôn đốc, thuyết phục T tự nguyện chấp hành bản án, giao cháu Trần Thị Anh T cho chị P nhưng T không tự nguyện thi hành.

Ngày 06/5/2022, Chi cục Thi hành án dân sự tiếp tục tổ chức cưỡng chế buộc Trần Văn T giao cháu Trần Thị Anh T cho NLQ2 nuôi dưỡng nhưng T không chấp hành nên không thực hiện được việc cưỡng chế.

Ngày 18/5/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện L có văn bản kiến nghị khởi tố và chuyển hồ sơ, tài liệu đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đề nghị xử lý Trần Văn T về tội "Không chấp hành án" quy định tại Điều 380 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra, chị NLQ2 khai: Sau khi bỏ về nhà mẹ đẻ ở và sau khi Toà án xét xử quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa chị P và T, giao con chung là cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021 cho chị P nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị P nhiều lần về nhà T thăm và đón cháu Trần Thị Anh T về chăm sóc, nuôi dưỡng theo quyết định của Toà án nhưng T không cho gặp và không giao con cho chị P nên chị P đã làm đơn gửi Chi cục Thi hành án dân sự huyện L yêu cầu thi hành bản án.

Trần Văn T khai đã được Chi cục Thi hành án dân sự huyện L giao, thông báo các quyết định về thi hành đối với Bản án về việc buộc T giao cháu Trần Thị Anh T cho chị NLQ2 nuôi dưỡng nhưng T không chấp hành án.

Tại bản Cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 30 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Không chấp hành án” theo khoản 1 Điều 380 của Bộ luật Hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 68/2022/HS-ST ngày 28/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 380, điểm i khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “Không chấp hành án”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt Thi hành án.

Phạt bị cáo Trần Văn T 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/11/2022, bị cáo Trần Văn T nộp đơn kháng cáo với nội dung bị cáo kêu oan, không phạm tội như bản án xét xử kết tội.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Trần Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử đã công bố đơn kháng cáo của bị cáo cũng như quan điểm của bị cáo nêu trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bị cáo.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Trần Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Ông Trần Văn Thủy bào chữa cho bị cáo Trần Văn T tranh luận: Đề nghị đại diện Viện kiemr sát đánh giá từng chứng cứ do người bào chữa cho bị cáo cung cấp tại phiên tòa và xem lại toàn bộ các tình tiết của vụ án, xem lại đưn của bà NLQ1 là Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện L để đánh giá chứng cứ, vì bà Vỹ là người có đơn đề nghị khởi tố vụ án Hình sự, để xem có vi phạm tố tụng không, thực tế đây chỉ là vụ án dân sự thông thường. Hai bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm về Hôn nhân và gia đình đều không đúng, do chị NLQ2 bỏ con đi không nuôi dưỡng, từ bỏ quyền nuôi con. Đề nghị Tòa án rút quyền nuôi con chung của chị P từ 01 đến 05 năm.

Chị NLQ2 không có ý kiến tranh luận gì.

Đối đáp của đại diện VKS: Do bị cáo Trần Văn T kháng cáo không phạm tội nên Viện kiểm sát đã đánh giá các tình tiết của vụ án để xác định bị cáo phạm tội hay không phạm tội và Viện kiểm sát đã thực hiện đánh giá các cấu thành tội phạm khẳng định bị cáo T phạm tội “Không chấp hành án”. Đối với các văn bản tài liệu của người bào chữa cho bị cáo cung cấp tại phiên tòa chưa được xác định là chứng cứ của vụ án vì chưa có căn cứ khẳng định chị P đem con đi Trung Quốc bán, nhận hối lộ... không phải là các tình tiết chứng cứ của vụ án. Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã trình bày.

Kết thúc tranh luận các bên giữ nguyên quan điểm của mình. Bị cáo Trần Văn T vắng mặt nên không có lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn T đã được làm trong thời hạn kháng cáo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn T thì thấy: Tháng 8/2020, Trần Văn T kết hôn với chị NLQ2, quá trình chung sống, T và chị P sinh được 01 con chung là cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021. Do mâu thuẫn vợ chồng, chị P làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện L giải quyết ly hôn, con chung. Tại Bản án số 94/2021/HNGĐ-ST ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện L và Bản án số 43/2021/HNGĐ-PT ngày 27/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa chị P và Trần Văn T; giao con chung là cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021 cho chị P nuôi dưỡng. Bản án có hiệu lực pháp luật nhưng T không tự nguyện thi hành nên chị P có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện L thi hành bản án trên.

Quá trình tổ chức thi hành án, mặc dù có điều kiện thi hành án, đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, bị xử phạt hành chính về hành vi "Không chấp hành án" và nhiều lần được Chi cục Thi hành án dân sự huyện L phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức, chính trị - xã hội tại địa phương đến nhà giải thích, vận động, đôn đốc, thuyết phục Trần Văn T chấp hành án, giao con cho chị NLQ2 nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục theo quyết định của Toà án nhưng T vẫn không chấp hành án.

[3] Bị cáo Trần Văn T và người bào chữa cho bị cáo đều cho rằng bị cáo T không phạm tội, bị cáo T bảo vệ con là chính đáng và cho rằng chị NLQ2 đưa hối lộ cho Tòa án để được nuôi con và có ý định bán con sang Trung Quốc. Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ Bản án số 94/2021/HNGĐ-ST ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện L và Bản án số 43/2021/HNGĐ-PT ngày 27/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thì bị cáo Trần Văn T là người phải chấp hành bản án và phải giao cháu Trần Thị Anh T, sinh ngày 06/8/2021 cho mẹ đẻ là NLQ2, nuôi dưỡng. Ngày 25/02/2022, Cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế nhưng Trần Văn T không chấp hành án, không giao cháu Anh T cho chị P nuôi dưỡng chăm sóc. Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành án” được quy định tại khoản 1 Điều 380 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Văn T về tội “Không chấp hành án” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Hành vi của bị cáo Trần Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành án đối với các Bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.. Do vậy, cần phải nghiêm trị bằng hình luật, lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để răn đe và phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 09 (Chín) tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội đối với bị cáo.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo Trần Văn T không xuất trình được các tình tiết gì mới, do vậy không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo cũng như quan điểm của người bào chữa cho bị cáo, cần giữ nguyên án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Trần Văn T không được cháp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Trần Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 380, điểm i khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “Không chấp hành án”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt Thi hành án.

Phạt bị cáo Trần Văn T 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội không chấp hành án (không giao con cho mẹ theo bản án hôn nhân) số 08/2023/HS-PT

Số hiệu:08/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Bị cáo Trần Văn T bị Tòa án nhân dân huyện L xét xử sơ thẩm về tội "Không chấp hành án" và tuyên phạt 9 tháng tù. Nguyên nhân là sau khi ly hôn với chị NLQ2, Tòa án quyết định giao con chung là cháu Trần Thị Anh T cho chị NLQ2 nuôi dưỡng nhưng T không chấp hành. Bị cáo đã kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người bào chữa của bị cáo cho rằng chị NLQ2 có ý định bán con sang Trung Quốc và đưa hối lộ để được nuôi con.

Hội đồng xét xử nhận định hành vi của bị cáo Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội "Không chấp hành án" và án sơ thẩm xét xử là đúng. Bị cáo không xuất trình được tình tiết mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo kêu oan.

Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội "Không chấp hành án" với mức án 9 tháng tù, phạt 5 triệu đồng và bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200 nghìn đồng.