TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 459/2022/HS-PT NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 819/2021/HSPT ngày 01tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Văn Ngh do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 74/2021/HSST ngày 23/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo: Hoàng Văn Ngh, sinh năm 1962; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở số nhà 296 Phố Lê Lợi, thị trấn V, huyện H, Thành phố Hà Nội; giới tính: nam; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 10/10; con ông Hoàng Văn T (đã chết) và bà Đặng Thị D; vợ Nguyễn Hồng H và có 02 con (con lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2003); tiền án, tiền sự không; đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên toà.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Đào T đều thuộc Văn phòng luật Hoàng H- Đoàn luật sư thành phố Hà Nội – có mặt.
Người bi hại có kháng cáo: Ông Nguyễn Xuân H1, sinh năm 1928; Trú tại: Thôn Hoàng Xá, thị trấn V, H, thành phố Hà Nội – vắng mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Xuân H1: Anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1973 (Con trai ông H1); trú tại số nhà 84, ngõ 20, đường Mỹ Đ, Phường Mỹ Đình II, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội – có mặt.
Người có quyền lợi, Ngh vụ L1 quan không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân huyện H, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 1978, ông Nguyễn Xuân H1 mua một phần đất ở phía bắc của gia đình ông bà Hoàng Văn T và Đặng Thị D ở Hoàng Xá, thị trấn V, H, Hà Nội với diện tích 291,7m2. Đến năm1985 ông H1 mua thêm phần đất của gia đình ông Đặng Viết Cường giáp phần đất đã mua của gia đình ông T, với diện tích 06m2. Năm 1992 ông H1 tiếp tục mua của thôn Hoàng Xá một phần đất giếng và một phần đất giáp ngõ đi, với diện tích 49m2 giáp phần đất đã mua của gia đình ông T. Ngày 20/8/1992 gia đình ông H1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01286/QSDĐ - với diện tích là 274m2, ngày 20/01/2009 Ủy ban nhân dân huyện H cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 395255, số thửa 238, tờ bản đồ số 12, diện tích là 346,7m2, đứng tên ông Nguyễn Xuân H1. Đến năm 2010 giữa gia đình bà D và gia đình ông H1 xảy ra mâu thuẫn trong việc tranh chấp mốc giới. Hai gia đình đều có đơn gửi đến Ủy ban nhân dân thị trấn V đề nghị giải quyết. Ngày 13/4/2010 Uỷ ban nhân dân thị trấn V đã tiến hành cắm mốc giới xác định ranh giới đất giữa 02 hộ. Sau khi cắm mốc, gia đình ông H1 đã xây dựng tường rào ngăn đất của nhà ông H1 và ao của nhà bà D nhưng hai gia đình vẫn mâu thuẫn, gia đình bà D có đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thị trấn V về việc ông H1 xây tường rào lấn sang đất của gia đình bà. Ngày 22/7/2010 Ủy ban nhân dân thị trấn V ra thông báo số 21/TB - UB về việc trả lời đơn thư khiếu nại của anh Hoàng Văn T1, với nội dung: Ông H1 đã xây tường bao phân chia mốc giới là đúng, không có việc ông H1 xây tường lấn sang đất của bà D. Đến ngày 08/12/2015, gia đình ông H1 xây dựng nâng cao tường rào trên, giữa 02 nhà lại tiếp tục xảy ra cãi chửi nhau; vụ việc trên Công an thị trấn đã xuống hiện trường lập biên bản ngăn chặn và yêu cầu gia đình ông H1 tạm dừng việc xây dựng, nhưng sau đó ông H1 vẫn tiếp tục xây nâng cao phần tường rào thêm 05 hàng gạch.
Khoảng 15 giờ, ngày 21/12/2015 tại nhà bà Đặng Thị D có Hoàng Văn Ngh, chị Hoàng Thị L1 (là con trai, con gái bà D), Đặng Ngọc S1 (là con trai chị L1) và Trần Đình Thắng ở Đống Vũ, Trường Thịnh là bạn của S1. Ngh thấy bức tường rào của nhà ông H1 đã xây dựng cao thêm nên Ngh bảo với Đặng Ngọc S1 là sang phá bức tường rào của gia đình ông H1, S1 đồng ý; Ngh và S1 vào nhà kho, Ngh cầm 01 thanh sắt và 01 dao chặt; S1 cầm 01 búa đinh rồi cả hai đi sang nhà ông H1. Khi đến nhà ông H1, Hoàng Văn Ngh dùng thanh sắt chọc vào góc tường rào làm sứt ít vữa tường, sau đó dùng dao chặt 01 cây Sung xanh của nhà ông H1 trồng sát tường rào, Đặng Ngọc S1 vào nhà ông H1 dùng búa đập, đẩy đổ T1 bộ phần tường mới xây và một phần tường cũ. Trong quá trình S1, Ngh đập phá tài sản, ông H1 và vợ là Nguyễn Thị Khắc có ra can ngăn nhưng không được; khi xảy ra sự việc anh Hoàng Văn T1 là con trai bà D có đi xe đạp đến nhưng chỉ đứng ở ngõ xem một lúc rồi đi về; Trần Đình Thắng cũng chỉ đứng ở ngõ không tham gia đập phá tài sản.
Hậu quả :
- Phần tường gạch cũ, xây dựng năm 2010 có đặc điểm : Tường xây xi măng, cát, bằng gạch đỏ lỗ, không trát, xây tường 10, dài 2.43m , cao 1.15m bị phá theo hình tam giác;
- Phần tường gạch mới, xây dựng năm 2015 có đặc điểm :
+ Tường xây xi măng cát bằng gạch đỏ đặc, không trát, xây tường 10, có bổ trụ dài 9m28, cao 0,34m;
+ Tường xây xi măng cát bằng gạch đỏ đặc, không trát, xây tường 10, có bổ trụ dài 9m13, cao 0,34m;
- Phần tường gạch xây mới, xây dựng năm 2015 bằng gạch ba vanh (Gạch Block xi măng, đã mạt) gồm 10 viên có kích thước 26x15x10;
- Một cây bồ đề : Hiện tại còn lại từ mặt đất lên gồm 07 thân cây trong đó có phần thân to nhất có chu vi 17cm, cao 27cm, phần thân nhả nhất có chu vi 6cm, phần thân, cành còn lại dài nhất 2,26cm (Sau khi giám định xác định là cây Sung Xanh).
Vật chứng: Đối với thanh sắt, dao và chiếc búa đinh Ngh và S1 dùng để đập phá tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả.
Tại Kết luận định giá số 07 ngày 8/3/2016, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H, Hà Nội kết luận: Tổng trị giá tài sản bị hủy hoại là 4.312.900 đồng.
Ngày 16/3/2021, Cơ quan Điều tra- Công an huyện H ra Yêu cầu định giá tài sản số 20, đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H định giá phần tường rào và cây Đa xanh bị hủy hoại. Ngày 28/6/2021 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận: 01 cây Sung xanh (Đa xanh) có trị giá là 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng); các phần tường bị hủy hoại có tổng trị giá là 954.411đ (Chín trăm năm mươi tư nghìn bốn trăm mười một đồng); 02 đoạn dây thép gai mắc trên tường rào, trị giá là 42.754 đồng. Tổng giá trị tài sản bị hủy hoại là : 2.454.411đ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2021/HSST ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Hà Nội đã xét xử:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Ngh phạm tội “Hủy hoại tài sản”.
Áp dụng : Khoản 1 Điều 178, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt Hoàng Văn Ngh 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, thời điểm chấp hành hình phạt tính từ ngày chính quyền địa phương nhận được bản sao bản án và Quyết định thi hành án. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Hoàng Văn Ngh.
Giao bị cáo Hoàng Văn Ngh cho cho Uỷ ban nhân dân thị trấn V, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội cùng gia đình bị cáo giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo.
Về trách nhiện dân sự : Buộc bị cáo Hoàng Văn Ngh có tránh nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Khắc số tiền là 2.454.411đồng (Hai triệu bốn trăm năm mươi tư nghìn, bốn trăm mười một đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/10/2021, bị cáo Hoàng Văn Ngh có đơn kháng cáo T1 bộ bản án;
Ngày 01/11/2021,người bị hại là ông Nguyễn Xuân H1 có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt và tăng mức bồi thường đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo và người bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo thừa nhận có hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu, nhưng cho rằng tài sản bị hủy hoại theo kết luận định giá là không đúng, kết luận định giá tài sản không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Người bị hại đề nghị tăng hình phạt và tăng bồi thường đối với bị cáo với lý do bị cáo cố ý phạm tội đến cùng, phạm tội có tổ chức; về thiệt hại, kết luận định giá tài sản là quá thấp, cây của gia đình do bị cáo hủy hoại là loại cây cảnh đã trồng nhiều năm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn Ngh khai nhận: Ngày 21/12/2015, bị cáo và Đặng Ngọc S1 có sang nhà ông Nguyễn Xuân H1 để phá tường và chặt cây. Tuy nhiên, bị cáo đề nghị xem xét lại việc định giá tài sản.
Xét thấy, vụ án kéo dài đã lâu, việc định giá tài sản đã được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện H, thành phố Hà Nội thực hiện nhiều lần, tuy nhiên trình tự, thủ tục định giá chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã nhiều lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đến nay theo Kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐGTS, ngày 28/6/2021 đã khắc phục những sai sót trên, trình tự, thủ tục định giá được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Sau khi được thông báo kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS, ngày 28/6/2021, bị cáo Hoàng Văn Ngh và ông Nguyễn Xuân H1 cũng không có ý kiến gì về Kết luận định giá. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định trị giá tài sản bị thiệt hại của ông H1 là 2.454.411 đồng và xét xử bị cáo Hoàng Văn Ngh về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá nguyên nhân xảy ra vụ án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình T giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định xử phạt Hoàng Văn Ngh 09 tháng cải tạo không giam giữ là phù hợp, đúng quy định của pháp luật nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại về mức hình phạt.
Về trách nhiệm dân sự: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự để xác định trị giá tài sản bị thiệt hại của ông H1 là 2.454.411 đồng là đúng. Bản án sơ thẩm buộc bị cáo Ngh phải bồi thường T1 số tiền 2.454.411đ cho gia đình ông H1 là phù hợp, đúng quy định pháp luật. Bị cáo kháng cáo đề nghị xem xét lại Kết luận định giá, ông Nguyễn Xuân H1 kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường nhưng tại cấp phúc thẩm không xuất trình tình T nào mới, do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại về nội dung trên.
Từ nhận định trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ: Luật sư cho rằng có hành vi như bản án sơ thẩm đã nêu là đúng; tuy nhiên, luật sư cho rằng kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của cấp sơ thẩm thực hiện không đúng quy định của pháp luật, giá trị tài sản bị hủy hoại thấp hơn nhiều so với kết luận định giá. Do vụ án đã kéo dài nhiều năm, kết luận định giá không đúng với giá trị thực của tài sản bị hủy hoại. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm và tuyên bị cáo không phạm tội “Hủy hoại tài sản”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo và người bị hại trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại, lời khai của những người L1 quan, kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ việc tranh chấp mốc giới đất giữa gia đình bà Đặng Thị D với gia đình ông Nguyễn Xuân H1 từ nhiều năm nay chưa được giải quyết dứt điểm; khi thấy nhà ông H1 xây cao hàng rào thêm 05 hàng gạch, chiều ngày 21/12/2015, Hoàng Văn Ngh đã bảo Đặng Ngọc S1 cùng nhau sang phá tài sản nhà ông H1. Ngh đã dùng thanh sắt chọc vào góc tường rào làm sứt ít vữa tường, sau đó dùng dao chặt 01 cây Sung Xanh (Đa Xanh) của nhà ông H1 trồng sát tường rào còn S1 dùng búa đập, đẩy đổ T1 bộ phần tường mới xây và một phần tường cũ. Tài sản bị thiệt hại tổng trị giá là: 2.454.411đ (hai triệu bốn trăm năm mươi tư nghìn, bốn trăm mười một đồng). Bị cáo Đặng Ngọc S1 đã chết và được Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hoàng Văn Ngh về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Xét kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Ngh và bị hại, thấy:
Về việc bị cáo Ngh đề nghị xem xét lại Kết luận định giá tài sản, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vụ án kéo dài đã lâu, việc định giá tài sản đã được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện H, thành phố Hà Nội thực hiện nhiều lần, tuy nhiên trình tự, thủ tục định giá chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã nhiều lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, định giá lại theo đúng quy định của pháp luật. Đến nay theo Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS, ngày 28/6/2021 đã khắc phục những sai sót trên, trình tự, thủ tục định giá được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Sau khi được thông báo kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS, ngày 28/6/2021, bị cáo Hoàng Văn Ngh và ông Nguyễn Xuân H1 cũng không có ý kiến gì về Kết luận định giá. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định trị giá tài sản bị thiệt hại của ông H1 là 2.454.411 đồng là phù hợp và có cơ sở pháp luật.
Về hình phạt đối với bị cáo Ngh: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo không có tình T tăng nặng, có nhiều tình T giảm nhẹ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nguyên nhân xảy ra vụ án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình T giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định xử phạt Hoàng Văn Ngh 09 tháng cải tạo không giam giữ là phù hợp nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại về mức hình phạt.
Về trách nhiệm dân sự: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự để xác định trị giá tài sản bị thiệt hại của ông H1 là 2.454.411 đồng là đúng. Theo quy định, bị cáo Hoàng Văn Ngh và Nguyễn Ngọc S1 phải L1 đới bồi thường cho ông Nguyễn Xuân H1, tuy nhiên bị cáo S1 đã chết, qua điều tra S1 không có tài sản để lại nên người thừa kế không có trách nhiệm thực hiện Ngh vụ tài sản của S1 theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật Dân sự. Bị cáo Ngh và Nguyễn Ngọc S1 có quan hệ gia đình, tài sản hủy hoại giá trị thấp nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo Ngh phải bồi thường T1 số tiền 2.454.411đ cho gia đình ông H1 là phù hợp, đúng quy định pháp luật. Bị cáo kháng cáo đề nghị xem xét lại Kết luận định giá, ông Nguyễn Xuân H1 kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường nhưng tại cấp phúc thẩm không xuất trình tình T nào mới, do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại về nội dung trên.
Từ phân tích trên, cần bác T1 bộ kháng cáo của bị cáo và người bị hại, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.
Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự phúc thẩm. bị hại không được chấp nhận kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại xử:
Áp dụng : Khoản 1 Điều 178, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt Hoàng Văn Ngh 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Hủy hoại tài sản”, thời điểm chấp hành hình phạt tính từ ngày chính quyền địa phương nhận được bản sao bản án và Quyết định thi hành án. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Hoàng Văn Ngh.
Giao bị cáo Hoàng Văn Ngh cho cho Uỷ ban nhân dân thị trấn V, huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội cùng gia đình bị cáo giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo.
2. Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự. Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Hoàng Văn Ngh có tránh nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Xuân H1 và bà Nguyễn Thị Khắc số tiền là 2.454.411đồng (Hai triệu bốn trăm năm mươi tư nghìn, bốn trăm mười một đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23; Điều 30 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Hoàng Văn Ngh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm, 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Bị hại ông Nguyễn Xuân H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 25/5/2022.
Bản án về tội hủy hoại tài sản số 459/2022/HS-PT
Số hiệu: | 459/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về