Bản án về tội hủy hoại tài sản số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 17/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Huỳnh Quốc T, sinh năm 1997; nơi sinh: An Giang; cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn 7/12; con ông Huỳnh Thành T1, sinh năm 1976 và bà Phan Hồng N, sinh năm 1976; anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là người lớn nhất trong gia đình; C sống như vợ chồng với chị Ngô Thị Hồng T2, sinh năm 2005; Có 01 người con sinh ngày 11/8/2020;

* Quá trình nhân thân: Từ nhỏ đến lớn sống cùng với gia đình tại ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang, học hết lớp 7 thì nghỉ, phụ giúp gia đình.

- Tiền án: Ngày 09/5/2013, Huỳnh Quốc T bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử phạt 08 năm tù về tội “Giết người”, đến ngày 09/02/2018 chấp hành xong án phạt tù.

- Tiền sự: Không.

- Bị cáo Huỳnh Quốc T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2021 tại Nhà tạm giữ - Công an huyện C cho đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Chị Ngô Thị Hồng T2, sinh năm 2005 (có mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Người đại diện hợp pháp của chị T2 gồm:

1.1 Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1956 (có mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

1.2 Anh Ngô Văn H, sinh năm 1981 (vắng mặt); Cư trú: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.

1.3 Chị Nguyễn Thị Phương D, sinh năm 1984 (vắng mặt); Cư trú: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền cho anh H và chị D là: bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1956, văn bản ủy quyền ngày 23/02/2022.

2. Bà Phan Hồng N, sinh năm 1976 (có mặt);

Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

3. Ông Huỳnh Thành T1, sinh năm 1976 (có mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

4. Ông Huỳnh Thành T3, sinh năm 1968 (vắng mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

5. Bà Huỳnh Thị Thanh T4, sinh năm 1974 (vắng mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Trịnh Thị Minh N2, sinh năm 1986 (vắng mặt); Cư trú: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người làm chứng:

1. Chị Huỳnh Thị Minh T5, sinh năm 2006 (có mặt); Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Anh Lữ Thanh T6, sinh năm 1997 (có mặt);

Cư trú: Ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 31/12/2021 sau khi uống rượu, bia say, Huỳnh Quốc T về nhà của cha, mẹ ruột là Phan Hồng N và Huỳnh Thành T1 tại ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang thì xảy ra cự cãi với vợ là Ngô Thị Hồng T2 (sinh ngày:

29/01/2007) và N. N điều khiển xe mô tô bỏ đi, nên T nảy sinh ý định đốt nhà của N, T1. Để thực hiện, T đuổi em ruột là Huỳnh Thị Minh T5 và T2 ẳm con ruột của T và T2 là Huỳnh Ngô Tiến T7 (sinh ngày: 11/8/2021) ra khỏi nhà. T đóng cửa nhà lại, mở nắp bình xăng xe mô tô biển số: 67T2 - X của T đang dựng tại phòng khách, lật ngã xe mô tô để xăng trong bình chảy ra trên nền gạch trong nhà, T tiếp tục lật ngã xe mô tô biển số: 67C1-400.74 của T1 đang dựng trong phòng khách phía trước xe mô tô của T làm xăng trong bình chảy ra trên nền gạch trong nhà; T đi đến bàn thờ lấy quẹt gas châm lửa đốt nhà tại vị trí xe mô tô biển số: 67C1-400.74 có xăng chảy ra trên nền gạch làm lửa cháy. T2, T5 và Huỳnh Thị Thanh T4 thấy lửa cháy nên tri hô để những người dân xung quanh giúp đỡ chữa cháy. Lúc này, Lữ Thanh T6 nghe tiếng tri hô và chạy ra đường thì nhìn thấy nhà của N và T1 đang cháy lớn nên điện thoại trình báo Công an thị trấn A. Lực lượng Công an thị trấn A đến hiện trường xác định T là người thực hiện hành vi đốt nhà nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, đồng thời kết hợp với quần chúng nhân dân, Công an huyện C và Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ - Công an tỉnh A dập tắt đám cháy.

Hậu quả: Tài sản của Phan Hồng N và Huỳnh Thành T1 bị cháy hủy hoại hoàn toàn gồm: 01 cái nhà, cuốn nền lót gạch men, có kích thước (4,5 x 16) mét, bằng khung gỗ bạch đàn, vách tôn, mái lộp tôn; 01 xe mô tô biển số: 67C1 - 400.74; 01 màn hình máy tính hiệu samsung màu đen và thùng CPU; 01 máy giặt hiệu Panasonic, loại 09kg; 01 tủ lạnh hiệu Panasonic; 01 tivi hiệu Samsung, loại 21 inch;

01 tủ thờ loại gỗ bên; 01 bộ lư đồng (loại III); 02 cái loa thùng, 01 amply, 01 đầu đĩa; 01 cái giường gỗ thao lao; 01 cái tủ quần áo bằng gỗ thao lao; 01 cái tủ, loại tủ búp phê bằng gỗ thao lao; 01 cái tủ sắt loại 2 cánh cửa; 01 cái tủ sắt loại 3 cánh cửa;

01 cái tủ nhôm (loại khung nhôm mặt kính); 02 chiếc nhẫn vàng 18 Kara (loại vàng 7 tuổi), có tổng trọng lượng 01 chỉ; 04 bao gạo, có tổng trọng lượng 200 kg và 5.500.000 đồng.

Tài sản của Ngô Thị Hồng T2 bị cháy hủy hoại hoàn toàn gồm: 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37 và 150.000 đồng.

Tài sản chung của T và T2 bị cháy hủy hoại hoàn toàn gồm: 01 cái tủ quần áo, loại tủ nhôm (khung nhôm mặt kính).

Tài sản của Huỳnh Thành T3 bị cháy hư hỏng gồm: Mái kết nhà bằng tôn (loại tôn sóng vuông) bị cháy xém; 04 cây đòn tay, loại gỗ tạp vuông của mái kết nhà, bị cháy xém; 07 cây xiên nhà, loại gỗ tạp vuông, bị cháy xém.

Tài sản của Huỳnh Thị Thanh T4 bị cháy hư hỏng gồm: Vách nhà bên trái loại tường xây gạch bị cháy xém và nứt, có kích thước (240 x 200) cm; Vách nhà bên trái bằng tôn bị cháy xém và ám khói, có kích thước (260 x 80,5) cm; 01 tấm kính (loại kính trơn thường 5 ly) của cửa sổ bên trái nhà, bị bể nứt, có kích thước (80 x 50,7) cm; 01 tấm kính (loại kính trơn thường 5ly) của cửa sổ bên trái nhà, bị bể nứt hư hỏng hoàn toàn, có kích thước (120 x 70,9) cm.

Ngày 06/01/2022, Quốc T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C khởi tố để điều tra.

Qua trình điều tra còn xác định: Ngày 08/3/2019, Huỳnh Quốc T và Ngô Thị Hồng T2 quen biết yêu thương nhau. Ngày 21/7/2019, Huỳnh Thanh T8, Phan Hồng N và ngoại của T2 là Nguyễn Thị N1 tổ chức lễ đính hôn cho T và T2 tại nhà T8 và N thuộc ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Sau khi tổ chức lễ đính hôn, T và T2 chung sống với nhau như vợ chồng và T đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với T2 tại nhà T8 và N làm T2 có thai. Đến ngày 11/8/2021, T2 sinh con đặt tên là Huỳnh Ngô Tiến T7. Sau đó, T tiếp tục có hành vi giao cấu với T2 nhiều lần tại nhà T8 và N.

Ngày 08/3/2022, Cơ quan Cảnh Sát điều tra Công an huyện C, tỉnh An Giang ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với Huỳnh Quốc T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 biển số xe mô tô 67T2-X; 01 biển số xe mô tô 67C1-400.74; 01 mảnh vải bị cháy biến dạng than hóa màu đen.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL.HĐ ngày 04/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, An Giang, kết luận:

1. Tài sản của Phan Hồng N:

- Một cái nhà, cuốn nền lót gạch men, có kích thước (4,5 x 16) mét, bằng khung gỗ bạch đàn, vách tôn, mái lộp tôn, bị cháy hoàn toàn. Nhà cất năm 2015 với tổng số tiền 85.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 55% tương đương 46.750.000 đồng.

- Xe mô tô biển số: 67C1 - 400.74, nhãn hiệu CITINEW, màu đen xám; SM: VHLFM125FMHV233516; SK: RMNWCHEMN7H003516, bị cháy hoàn toàn. Xe đã qua sử dụng từ năm 2016 với giá 2.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 40% tương đương 800.000 đồng.

- Một màn hình máy tính hiệu S màu đen và thùng CPU (không rõ hiệu) bị cháy hoàn toàn. Bộ máy đã qua sử dụng nhiều năm với giá 700.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại tương đương 300.000 đồng.

- Một máy giặt hiệu P, loại 09kg, bị cháy hoàn toàn. Máy đã qua sử dụng từ năm 2019 với giá 9.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 40% tương đương 3.600.000 đồng.

- Một tủ lạnh hiệu P, bị cháy hoàn toàn. Máy đã qua sử dụng từ năm 2018 với giá 8.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 20% tương đương 1.600.000 đồng.

- Một tivi hiệu S, loại 21 inch đích nhọn, bị cháy hoàn toàn. Máy đã qua sử dụng từ năm 2012 với giá 4.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 10% tương đương 400.000 đồng.

- Một tủ thờ loại gỗ bên, kích thước (120 x 160 x 60) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2018 với giá 6.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 50% tương đương 3.000.000 đồng.

- Một bộ lư đồng (loại III), bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2019 với giá 4.000.000 đồng, sự ăn mòn kim loại không đáng kể, giá trị sử dụng còn lại là 100% tương đương 4.000.000 đồng.

- Hai cái loa thùng, một amply, một đầu đĩa (không rõ hiệu) bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2007 với giá 1.500.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 10% tương đương 150.000 đồng.

- Một cái giường gỗ thao lao, kích thước (160 x 200 x 60) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2007 với giá 2.500.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 20% tương đương 500.000 đồng.

- Một cái tủ quần áo bằng gỗ thao lao, kích thước (160 x 180 x 60) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2003 với giá 4.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 20% tương đương 800.000 đồng.

- Một cái tủ (búp phê) bằng gỗ thao lao, kích thước (160 x 140 x 40) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2007 với giá 1.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 20% tương đương 200.000 đồng.

- Một cái tủ sắt loại 2 cánh cửa, kích thước (100 x 160 x 40) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2015 với giá 900.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 30% tương đương 270.000 đồng.

- Một cái tủ sắt loại 3 cánh cửa, kích thước (120 x 160 x 40) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2016 với giá 1.500.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 30% tương đương 450.000 đồng.

- Một cái tủ nhôm (loại khung nhôm mặt kính), kích thước (100 x 140 x 40) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2016 với giá 2.500.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 30% tương đương 750.000 đồng.

- Hai chiếc nhẫn vàng 18 Kara (loại vàng 7 tuổi), có tổng trọng lượng 01 chỉ, bị cháy mất. Đã qua sử dụng với giá 3.000.000 đồng, sự ăn mòn kim loại không đáng kể, giá trị sử dụng còn lại là 100% tương đương 3.000.000 đồng.

- Bốn bao gạo, có tổng trọng lượng 200 kg, bị cháy hoàn toàn. Có giá trị là 100% tương đương 900.000 đ/bao x 4 = 3.600.000 đồng.

2. Tài sản của Ngô Thị Hồng T2:

Một điện thoại di động hiệu OPPO A37, màu hồng, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2021 với giá 1.200.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 80% tương đương 960.000 đồng.

3. Tài sản chung của Huỳnh Quốc T và Ngô Thị Hồng T2:

Một cái tủ quần áo, loại tủ nhôm (khung nhôm mặt kính), kích thước (180 x 220 x 50) cm, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2020 với giá 4.500.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 75% tương đương 3.375.000 đồng.

4. Tài sản của Huỳnh Quốc T:

- Xe mô tô biển số: 67T2 - X, nhãn hiệu YAMAHA, lọa MIO, màu nâu vàng; SM: 034857; SK: 034857, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2020 với giá 6.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 80% tương đương 4.800.000 đồng.

- Một điện thoại di động hiệu S, cảm ứng, màu đen, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2021 với giá 1.200.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 80% tương đương 960.000 đồng.

- Một chiếc xe đạp điện, bị cháy hoàn toàn. Đã qua sử dụng từ năm 2019 với giá 4.200.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại là 50% tương đương 2.100.000 đồng.

5. Nhà của Huỳnh Thành T3:

- Mái kết nhà bằng tôn (loại tôn sóng vuông) bị cháy xém, có kích thước: (150 x 50) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 50.000 đồng.

- Ba cây đòn tay, loại gỗ tạp vuông của mái kết nhà, bị cháy xém, có kích thước (40 x 0,5) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 50.000 đồng.

- Một cây đòn tay, loại gỗ tạp tròn của mái kết nhà, bị cháy xém, có kích thước (50,8 x 20,4) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 20.000 đồng.

- Một cây xiên nhà, loại gỗ tạp vuông, bị cháy xém, có kích thước (40 x 0,5) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 20.000 đồng.

- Một cây xiên nhà, loại gỗ tạp vuông, bị cháy xém, có kích thước (50 x 0,5) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 20.000 đồng.

- Năm cây xiên trên nóc nhà, loại gỗ tạp vuông, bị cháy xém, có kích thước (20 x 0,5) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 20.000 đồng.

6. Nhà của Huỳnh Thị Thanh T4:

- Vách nhà bên trái loại tường xây gạch bị cháy xém và nứt, có kích thước (240 x 200) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 2.500.000 đồng.

- Vách nhà bên trái bằng tôn bị cháy xém và ám khói, có kích thước (260 x 80,5) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 100.000 đồng.

- Một tấm kính (loại kính trơn thường 5ly) của cửa sổ bên trái nhà, bị bể nứt, có kích thước (80 x 50,7) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 200.000 đồng.

- Một tấm kính (loại kính trơn thường 5ly) của cửa sổ bên trái nhà, bị bể nứt hư hỏng hoàn toàn, có kích thước (120 x 70,9) cm. Đã qua sử dụng, giá trị sử dụng tương đương 400.000 đồng.

Tổng giá trị thiệt hại của các loại tài sản trên là: 81.847.500 đồng.

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 56/22/TDTE ngày 11/02/2022 tại Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận:

Ngô Thị Hồng T2, sinh ngày 29/01/2005 (theo giấy khai sinh ngày:

29/01/2007), địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; chỗ ở: ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang.

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Các dấu vết thu thập được:

+ Màng trinh: rách cũ vị trí 03 giờ, 07 giờ.

+ Bộ phận sinh dục ngoài chưa ghi nhận bất thường.

+ Các cơ quan khác không thương tích tồn tại.

- Kết quả cận lâm sàng:

Siêu âm: chưa ghi nhận bất thường trên hình ảnh siêu âm.

2. Kết luận:

- Màng trinh: rách cũ vị trí 03 giờ, 07 giờ.

- Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y1 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần:

+ Màng trinh không xếp tỷ lệ tổn thương cơ thể.

+ Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 00% (không phần trăm).

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 10/ĐT ngày 14/02/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Thành phố C, kết luận: Ngô Thị Hồng T2, địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.

Qua kết quả khám lâm sàng và cận lâm sàng, sự phát triển thể chất của cơ thể, sự mọc răng và đặt điểm cốt hóa của các đầu xương chưa liền hoàn toàn vào thân xương xác định Ngô Thị Hồng T2 có độ tuổi từ 16 tuổi 03 tháng đến 16 tuổi 09 tháng (tại thời điểm giám định ngày 11/02/2022).

* Căn cứ Kết luận giám định số 2096/KL-KTHS ngày 25/4/2022 của Phân Viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- Huỳnh Quốc T và Huỳnh Ngô Tiến T7 có quan hệ huyết thống cha - con.

- Ngô Thị Hồng T2 và Huỳnh Ngô Tiến T7 có quan hệ huyết thống mẹ - con.

Tại Cáo trạng số 15/CT-VKSCT-HS ngày 31/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Huỳnh Quốc T về các tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 145 và tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung vụ án được tóm tắt.

Bị hại chị Ngô Hồng T2, người đại diện hợp pháp cho bị hại bà Nguyễn Thị N1, Ngô Văn H, Nguyễn Thị Phương D, Phan Hồng N, Huỳnh Thành T1; người làm chứng: chị Nguyễn Thị Minh T9, anh Lữ Thanh T6 cùng trình bày phù hợp với nội dung vụ án nêu trên; các bị hại Huỳnh Thành T3, Huỳnh Thị Thanh T4; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trịnh Thị Minh N2 đều vắng mặt tại phiên tòa. Trong quá trình điều tra có lời khai trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu, các bị hại không yêu cầu xử lý bị cáo và không yêu cầu T bồi thường đối với tài sản thiệt hại tài sản (Bút lục số: 49-56, 59-66, 75-78, 82-95, 115-124).

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát trình bày nội dung luận tội: Giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 145, điểm b, d khoản 2 Điều 178, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Điều 38 xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc T từ 03 (Ba) năm đến 04 (B) năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù về tôi “Hủy hoại tài sản”.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo từ 06 năm đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam, tạm giữ (31/12/2021).

Hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Do các bị không yêu cầu bồi thường nên không đề nghị xem xét giải quyết.

- Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe mô tô 67T2- X; 01 biển số xe mô tô 67C1-400.74; 01 mảnh vải bị cháy biến dạng than hóa màu đen (không còn giá trị sử dụng).

Đối với Phan Hồng N, Huỳnh Thành T1, Nguyễn Thị N1 có hành vi tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho Huỳnh Quốc T và Ngô Thị Hồng T2 khi T2 chưa đến tuổi kết hôn, có dấu hiệu của tội “Tổ chức tảo hôn”, nhưng do N, T1, N1 chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này nên không xỷ lý.

Bị cáo Huỳnh Quốc T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, bị cáo đã dùng xăng là chất nguy hiểm về cháy, nổ đốt nhà hủy hoại tài sản và nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với T2 có 01 con chung tên Huỳnh Ngô Tiến T7, sinh ngày 11/8/2021 phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản, kết luận giám định pháp y về độ tuổi, kết luận giám định gen (AND) và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. (Bút lục số: 07 - 13, 238 - 239, 241 - 244, 246 - 247, 249 - 251). Bị cáo không tranh luận với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm hòa nhập cộng đồng và chăm lo cho gia đình.

- Bị hại Ngô Thị Hồng T2, người đại diện hợp pháp cho bị hại là bà Nguyễn Thị N1 trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên. Bị hại T2 và bị cáo yêu thương nhau làm lễ đính hôn, tự nguyện quan hệ tình dục với bị cáo nên không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo và không yêu cầu bồi thường. (Bút lục số: 115 - 124).

- Bị hại Phan Hồng N, Huỳnh Thành T1 có mặt tại phiên tòa, riêng bị hại Huỳnh Thành T3, Huỳnh Thị Thanh T4 vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra, bị hại có lời trình bày đúng như nội dung vụ án đã nêu. N, T1, T3, T4 không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo và không yêu cầu bồi thường đối với tài sản bị hủy hoại và làm hư hỏng. (Bút lục số: 59 - 66, 75 - 78, 82 - 95).

- Người làm chứng: Huỳnh Thị Minh T5 và Lữ Thanh T6 cùng trình bày chứng kiện việc bị cáo T đốt nhà, phù hợp như nội dung vụ án nêu trên. (Bút lục số:

49 - 56).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại gồm Nguyễn Thị N1 trình bày việc bà cùng với cha mẹ ruột của bị cáo là T1 và N tổ chức lễ đính hôn cho bị cáo và T2 phù hợp như nội dung vụ án đã nêu trên. Bà N1 được H và D ủy quyền làm người đại diện hợp pháp của T2 tham gia tố tụng; bà cũng không yêu cầu xử lý hình sự bị cáo về hành vi giao cấu với T2 và không yêu cầu bị cáo bồi thường. (Bút lục số: 125 - 128, 134 - 137).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị hại Huỳnh Thành T3, Huỳnh Thị Thanh T4; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trịnh Thị Minh N2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, những người này đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây cản trở cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

Về thủ tục ủy quyền: Bà N1 được anh H và chị D ủy quyền làm người đại diện hợp pháp của T2 tham gia tố tụng, văn bản ủy quyền hợp lệ nên được chấp nhận.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Huỳnh Quốc T khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với thời gian, đặc điểm các tài sản bị hủy hoại, hư hỏng, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ trên, đã có đủ cơ sở xác định: Ngày 31/12/2021 do có cự cãi với vợ và mẹ ruột, sau khi uống rượu, bia từ trước, bị cáo T đuổi em ruột là Huỳnh Thị Minh T5 và T2 ẳm con ruột của T và T2 ra khỏi nhà. T đóng cửa nhà lại, mở nắp bình xăng xe mô tô của T và lật ngã xe mô tô của anh T1 đang dựng trong phòng khách phía trước xe mô tô của T làm xăng trong bình chảy ra trên nền gạch trong nhà; T đi đến bàn thờ lấy quẹt gas châm lửa đốt nhà, hậu quả làm tài sản của Phan Hồng N, Huỳnh Thành T1 bị cháy hủy hoại hoàn toàn trị giá 75.670.000 đồng và tài sản của Ngô Thị Hồng T2 trị giá 2.797.500 đồng. Ngoài ra, còn cháy lang làm hư hỏng một phần căn nhà của Huỳnh Thành T3 trị giá 180.000 đồng; hư hỏng một phần căn nhà của Huỳnh Thị Thanh T4 trị giá 3.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 81.847.500 đồng.

[3] Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL.HĐ ngày 04/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, tỉnh An Giang, kết luận: Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 81.847.500 đồng (Bút lục số: 143 - 145).

Tài sản của công dân do công sức lao động và tích lũy trong quá trình sản xuất lao động của họ mới có được nên luôn được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác bất hợp pháp, dưới bất kỳ hình thức nào đều phải xử lý nghiêm minh.

Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện sự xem thường pháp luật, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, mà còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi hủy hoại tài sản của người khác, mà cụ thể trong trường hợp này tài sản là căn nhà của cha mẹ ruột bị cáo, cũng chính là nơi bị cáo thường xuyên sinh sống, hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, lẽ ra bị cáo phải có cách cư xử đúng chuẩn mực đạo đức, tạo sự hòa thuận trong gia đình, biết hiếu thảo với cha mẹ, là thành viên trong gia đình, bị cáo phải biết chăm lo làm ăn để tạo thêm nhiều của cải tài sản cho gia đình, ngược lại, bị cáo đã bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra, bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội, cố ý đốt nhà làm hủy hoại toàn bộ tài sản.

[4] Điều 178 Bộ luật Hình sự quy định: “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”:

1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) ................ ;

b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

c) ................ ;

d) Dùng chất nguy hiểm về cháy, nổ hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác 3. ................................ .

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Do đó, bị cáo Huỳnh Quốc T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ. Vì vậy, cần phải được xử lý nghiêm mới đủ sức giáo dục, răn đe, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng nhằm góp phần đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Ngoài ra, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo còn khai nhận: Vào ngày 08/3/2019 bị cáo quen biết với T2, đến ngày 19/6/2019 (âm lịch) tức ngày 21/7/2019 cha mẹ ruột của T là anh Huỳnh Thành T1, chị Phan Hồng N và bà ngoại ruột của T2 là bà Nguyễn Thị N1 tổ chức làm lễ đính hôn cho T và T2 tại nhà của anh T1 và chị N. Sau đó T2 và T chung sống như vợ chồng tại ấp H, thị trấn A, huyện C, An Giang và có quan hệ tình dục nhiều lần làm cho T2 mang thai, đến ngày 11/8/2020 T2 sinh được một bé trai tên Huỳnh Ngô Tiến T7.

[6] Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 56/22/TDTE ngày 11/02/2022 tại Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận: Ngô Thị Hồng T2, sinh ngày 29/01/2005 (theo giấy khai sinh ngày: 29/01/2007):

- Màng trinh: rách cũ vị trí 03 giờ, 07 giờ.

- Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y1 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần:

+ Màng trinh không xếp tỷ lệ tổn thương cơ thể.

+ Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 00% (không phần trăm). (Bút lục số: 153 - 154).

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 10/ĐT ngày 14/02/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Thành phố C, kết luận: Sự phát triển thể chất của cơ thể, sự mọc răng và đặt điểm cốt hóa của các đầu xương chưa liền hoàn toàn vào thân xương xác định Ngô Thị Hồng T2 có độ tuổi từ 16 tuổi 03 tháng đến 16 tuổi 09 tháng (tại thời điểm giám định ngày 11/02/2022) (Bút lục số: 160 - 161).

* Căn cứ Kết luận giám định số 2096/KL-KTHS ngày 25/4/2022 của Phân Viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- Huỳnh Quốc T và Huỳnh Ngô Tiến T7 có quan hệ huyết thống cha - con.

- Ngô Thị Hồng T2 và Huỳnh Ngô Tiến T7 có quan hệ huyết thống mẹ - con (Bút lục số 173).

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm thân thể, xâm phạm tình dục trẻ vị thành niên, đó là một trong các quyền được pháp luật bảo vệ; Bị cáo là người trưởng thành và đầy đủ nhận thức, năng lực chịu trách nhiệm trước pháp luật mọi hành vi sai trái, phạm tội với lỗi cố ý bất chấp mọi hậu quả. Với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội, xét cần thiết xử phạt nghiêm nhằm cải tạo bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung trước tình trạng xâm hại tình dục trẻ vị thành niên xảy ra nhiều trong thời gian qua.

[7] Xét tính chất, mức độ phạm tội, thấy: Mặc dù giữa hai người nảy sinh tình cảm yêu thương với nhau và khi thực hiện hành vi giao cấu có sự tự nguyện của bị hại, nhưng bị hại là người chưa thành niên, bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Lẽ ra, bị cáo phải nhận thức được hậu quả của việc giao cấu với bị hại sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý được pháp luật bảo vệ, lợi dụng bị hại thiếu hiểu biết, chưa nhận thức được hậu quả của việc quan hệ tình dục sớm, bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu với bị hại làm cho bị hại có thai và sinh một con trai vào năm 2021.

[8] Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định:“Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”:

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) ................ ;

d) Làm nạn nhân có thai;

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Từ những phân tích trên, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[9] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét, sau khi phạm tội thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải, bản thân bị cáo là thành phần lao động nghèo, học vấn không cao nên thiếu hiểu biết về pháp luật, trong quá trình điều tra thì bị hại và đại diện hợp pháp cho bị hại có đơn bãi nại, không yêu cầu xử lý hình sự bị cáo và không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ nên được chấp nhận khi xem xét quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[10] Biện pháp tư pháp:

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo có hành vi hủy hoại tài sản của bị hại; lẽ ra bị cáo phải bồi thường thiệt hại, nhưng các bị hại không yêu cầu bồi thường đối với tài sản bị hủy hoại và làm hư hỏng. Riêng hành vi xâm hại tình dục đối với bị hại T2, bị cáo cũng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cho bị hại, tuy nhiên phía bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

- Xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ 01 biển số xe mô tô 67T2-X; 01 biển số xe mô tô 67C1-400.74; 01 mảnh vải bị cháy biến dạng than hóa màu đen. Xét đây là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Hình phạt bổ sung: Do bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[11] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Huỳnh Quốc T và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận.

[12] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Quốc T phạm tội “Hủy hoại tài sản” và tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

Áp dụng: Điểm a, d khoản 2 Điều 145; điểm b, d khoản 2 Điều 178, Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Quốc T 03 (ba) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 31/12/2021).

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe mô tô 67T2-X;

01 biển số xe mô tô 67C1-400.74; 01 mảnh vải bị cháy biến dạng than hóa màu đen không còn giá trị sử dụng.

- Về án phí, quyền kháng cáo: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Đối với bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sản số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về