Bản án về tội hủy hoại tài sản số 151/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2020/HS-PT NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/HSPT/TLPT-HS ngày 08/01/2020 đối với bị cáo A, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

A; sinh ngày 08 tháng 5 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 478/16 C, phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Tổ 3, ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nhân viên giao hàng; trình học vấn: 9/12; con ông: F và bà G; hoàn cảnh gia đình: có vợ, chưa có con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 24/02/2004 bị Tòa án nhân dân Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 328/HSST.

- Ngày 09/9/2011 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 208/HSST.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa: Luật sư Lại Thị Lệ T, Văn phòng Luật sư Lại Thị Lệ T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo A, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 08/3/2019, A điều khiển xe gắn máy đi giao gas trên đường Nguyễn Kiệm thì làm rớt bình gas lăn trên cửa hàng điện thoại di động của anh F tại số 581F Nguyễn Kiệm, Phường 9, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. A dừng xe bên đường đi bộ qua định nhặt bình gas thì thấy anh Fdùng chân đạp lên bình gas nhưng bị lăn ngược ra đường. A nghĩ anh F không phụ nhặt mà còn đạp bình gas ra đường nên nói lớn tiếng với anh F, nhưng anh F đeo tai nghe không trả lời rồi quay vào cửa hàng.

Do bực tức anh F nên khoảng 22 giờ cùng ngày sau khi giao hàng xong, A đến nhà H (bạn của A) ở đường Quang Trung, Gò Vấp rủ H đi đánh anh F. A nói H chỉ chở đi và đứng ngoài không vào nên H đồng ý. Trên đường đi đến cầu vượt Nguyễn Thái Sơn thì A mua 02 cây tuýp sắt của người phụ nữ bán ve chai với giá 50.000 đồng. Sau đó cả hai chạy xe về cửa hàng 415 Nguyễn Kiệm để A cất xe của mình rồi H chở A đi đến cửa hành anh F. Đến nơi H đứng ngoài đợi, còn A hai tay cần hai tuýp sắt xông vào cửa hàng đánh anh Fnhưng không trúng nên đập phá tủ kính trưng bày điện thoại làm hỏng 03 tấm kính và 01 màn hình điện thoại. Lúc này anh F cầm cây ra thì A bỏ chạy ra xe H chở về chỗ cất tuýp sắt. Cùng ngày anh Fđến Công an Phường 9, quận B trình báo sự việc.

Tại Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B ngày 02/5/2019 thì 01 tấm kính có kích thước 1,87cm x 50cm, loại kính 10 ly trị giá 748.000 đồng; 01 tấm kính có dạng cong hình chữ L, kích thước 2,87cm x 40cm, loại kính 08 ly trị giá 800.000 đồng; 01 tấm kính có kích thước 1,28cm x 46cm, loại kính 10 ly trị giá 470.000 đồng. Tổng trị giá là 2.018.000 đồng Tại Kết luận định giá ngày 07/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B thì màn hình điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7 trị giá 1.800.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HSST, ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: A 09 (chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Thời hạn tù được Fh từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 05/12/2019 bị cáo A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo 09 tháng tù là tương xứng với Fh chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luận cứ bào chữa của Luật sư cho rằng bị cáo sống trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ bị cáo ly hôn, mẹ chết bị cáo phải lao động nuôi hai em nhỏ, nên đã hình A tâm lý dễ mất kiểm soát từ nhỏ, nên khi thấy bị hại không giúp đỡ mà còn đẩy bình gas ra đường nên bị cáo bức xúc mới có hành vi trái pháp luật. Sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, A khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiện tại bị cáo mới A lập gia đình, mới sinh con, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét các tình tiết trong vụ án để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng tội.

[3] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo A khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo 09 tháng tù là đã xem xét, chiếu cố đến hoàn cảnh của bị cáo. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để giảm án theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo được.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Luận cứ bào chữa của Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo A, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HSST, ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: A 09 (Chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Thời hạn tù tính từ bắt bị cáo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sản số 151/2020/HS-PT

Số hiệu:151/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về