Bản án về tội hủy hoại tài sả số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2023/TLST- HS ngày 12 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn N, sinh ngày 01/10/1989, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Tổ 6, Khu vực 3, phường An Hòa, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Th và bà Ngô Thị B; vợ, con:

Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/7/2023 đến nay. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Ông Trần Văn Th, sinh năm: 1960 và bà Ngô Thị B, sinh năm 1963; trú tại: Tổ 6, Khu vực 3, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đều có mặt.

- Bị hại: Công ty TNHH một thành viên quản lý khai thác công trình thủy lợi Thừa Thiên Huế;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Đức Hoài Kh, sinh năm 1980; trú tại: 736 Nguyễn T, phường P, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị B, sinh năm 1963; trú tại: Tổ 6, Khu vực 3, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Ngô H, sinh năm 1963; trú tại: TDP Thanh Tiên, phường H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

2. Ông Hà Văn Th, sinh năm 1963; trú tại: TDP La Chữ Đông, phường H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

3. Anh Cao Minh H, sinh năm 1990; trú tại: TDP Thượng Khê, phường H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h00 ngày 08 tháng 3 năm 2023, Trần Văn N đi xe đạp đến khu vực hồ chứa nước Thọ Sơn thuộc TDP Thượng Khê, phường H, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế để xem người dân câu cá. Tại đây, N nhìn thấy có các camera giám sát hồ chứa nước nên đã nảy sinh ý định phá hoại các camera này nhằm mục đích khi N đến đây câu cá sẽ không bị phát hiện. Để thực hiện ý định trên, N leo lên trụ điện thứ nhất trên đập tràn dùng tay giật 01 (một) camera kèm bộ vỏ, chân đế camera và giật 02 (hai) cánh cửa của hai tủ làm bằng inox gắn phía dưới camera rồi tiếp tục đi xuống lòng tràn leo lên trụ điện thứ hai giật 01 (một) camera kèm bộ vỏ, chân đế camera. Sau đó, N ném 02 (hai) cánh cửa tủ xuống hồ Thọ Sơn rồi đem 02 (hai) camera kèm bộ vỏ, chân đế camera nêu trên đến khu vực đất trống gần đó gom củi và lá cây khô châm lửa đốt và chờ cháy hết thành than, tro rồi lấy xe đi về nhà.

Quá trình điều tra, truy xét Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã xác định Trần Văn N đã thực hiện hành vi hủy hoại tài sản nên đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo để xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 12 tháng 4 năm 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà ra Yêu cầu định giá tài sản số 26 đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà định giá các tài sản nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTS ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà kết luận:

đồng;

+ 02 (hai) camera IP 4MP có màu trị giá 5.500.000 đồng;

+ 02 (hai) cánh cửa chất liệu inox, kích thước 70x25cm trị giá 800.000 + 02 (hai) bộ vỏ, chân đế camera ngoài trời trị giá 620.000 đồng;

Tổng giá trị tài sản là 6.920.000 đồng (sáu triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng);

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà ra Quyết định trưng cầu giám định số 63 đề nghị Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung giám định tâm thần của Trần Văn N.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 800/KLGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2023 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung kết luận:

- Trước thời điểm gây án:

+ Kết luận về y học: Rối loạn tâm thần và hành vi khác do sử dụng nhiều loại ma túy (F19.8)

+ Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm gây án:

+ Kết luận về y học: Rối loạn tâm thần và hành vi khác do sử dụng nhiều loại ma túy (F19.8)

 + Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Thời điểm hiện tại:

+ Kết luận về y học: Rối loạn tâm thần và hành vi khác do sử dụng nhiều loại ma túy (F19.8)

+ Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại Công văn số 376/PYTT-PKHTH ngày 01/8/2023 của Trung tâm Pháp y Tâm thần Khu vực miền Trung về việc làm rõ kết luận trưng cầu giám định tâm thần đối với Trần Văn N kết luận: Trần Văn N mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi nhưng vẫn chịu trách nhiệm hình sự.

* Vật chứng vụ án:

+ 01 (một) bật lửa, màu xanh, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) bật lửa, màu vàng, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) bật lửa, màu tím, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) xe đạp, màu xanh - đen, trên thân xe có dòng chữ “GMINDI” màu trắng, đã qua sử dụng.

* Về dân sự: Bị cáo Trần Văn N đã tự nguyện thỏa thuận, bồi thường số tiền 6.920.000 đồng cho phía bị hại, phía bị hại không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS-HTr ngày 11/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà đã truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà giữ nguyên quyết định truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn N từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu gì thêm nên đề nghị không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy các bật lửa thu giữ và trả lại xe đạp cho bà Ngô Thị B (mẹ bị cáo) vì bị cáo không sử dụng xe đạp này vào việc phạm tội. Đề nghị tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn N trình bày bản thân biết việc hủy hoại tài sản của người khác là vi phạm pháp luật; tỏ ra rất ân hận về hành vi của mình, hứa sẽ không vi phạm và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương. Gia đình cam đoan sẽ theo dõi, quản lý chặt bị cáo; không để bị cáo tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật. Bà Ngô Thị B xin được nhận lại xe đạp.

Người đại diện theo pháp luật của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra thị xã Hương Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Trên cơ sở lời khai của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19h00 ngày 08 tháng 3 năm 2023, với ý định hủy hoại các camera giám sát tại hồ chứa nước Thọ Sơn ở tổ dân phố Thượng Khê, phường H, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; Trần Văn N đã leo lên các cột trụ điện để giật 02 (hai) camera kèm bộ vỏ, chân đế camera và 02 (hai) cánh cửa tủ làm bằng inox. Sau đó, N ném 02 (hai) cánh cửa tủ xuống hồ Thọ Sơn và châm lửa đốt 02 (hai) camera kèm bộ vỏ, chân đế camera gây thiệt hại với tổng trị giá 6.920.000 đồng (sáu triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng);

Bị cáo Trần Văn N là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, nhưng bị cáo vẫn nhận thức được hành vi hủy hoại tài sản của người khác là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; nên vẫn chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của Trần Văn N đã phạm tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung vào năm 2017. Do vậy, bản cáo trạng số 27/CT-VKS-HTr ngày 11/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố bị cáo về các tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng:

Bị cáo Trần Văn N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, Đại diện Viện kiểm sát cho rằng Trần Văn N bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy. Do đó, không cho bị cáo N được hưởng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi” quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Trần Văn N khai trước và tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi hủy hoại tài sản thì bị cáo không sử dụng ma túy, phù hợp với tài liệu là Phiếu kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể ngày 15/3/2023 (kết luận Trần Văn N âm tính với chất ma túy trong cơ thể). Quá trình điều tra, cơ quan điều tra thu thập được tài liệu liên quan đến tiền sử mắc bệnh tâm thần đối với Trần Văn N, nên đã trưng cầu giám định tình trạng sức khỏe tâm thần, khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bị cáo. Trung tâm Pháp y Tâm thần Khu vực miền Trung kết luận: trước thời điểm gây án, tại thời điểm gây án và thời điểm hiện tại là “Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi”.

Như vậy, trong trường hợp này, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bị cáo Trần Văn N đã được cơ quan giám định pháp y có thẩm quyền kết luận, lỗi của người phạm tội trong trường hợp này là lỗi hạn chế; theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Trần Văn N có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Gia đình bị cáo đã cam đoan sẽ quản lý chặt bị cáo, có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục. Với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy có thể áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự, không cần cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội, cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa thì bị cáo cũng có khả năng tự cải tạo, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã giải quyết xong, bị hại không yêu cầu gì thêm, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với: 01 (một) bật lửa, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 (một) bật lửa, màu vàng, đã qua sử dụng; 01 (một) bật lửa, màu tím, đã qua sử dụng;

Đây là công cụ phương tiện bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị nên cần Tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 (một) xe đạp, màu xanh - đen, trên thân xe có dòng chữ “GMINDI” màu trắng, đã qua sử dụng. Xe đạp này là của bà Ngô Thị B (mẹ bị cáo), đây không phải là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, nên cần trả lại cho bà Ngô Thị B.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn N phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/9/2023).

Giao bị cáo Trần Văn N cho UBND phường An Hòa, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bật lửa, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 (một) bật lửa, màu vàng, đã qua sử dụng; 01 (một) bật lửa, màu tím, đã qua sử dụng;

+ Trả lại cho bà Ngô Thị B (mẹ bị cáo N): 01 (một) xe đạp, màu xanh - đen, trên thân xe có dòng chữ “GMINDI” màu trắng, đã qua sử dụng.

(Tất cả vật chứng nên trên được mô tả và chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2023)

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Văn N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người đại hiện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sả số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về