Bản án về tội hủy hoại rừng số 73/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 73/2023/HS-PT NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2023/TLPT-HS ngày 7 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Phan Hồng Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

* Bị cáo có kháng cáo: Phan Hồng Q, sinh năm 1986 tại huyện TS, tỉnh Bình Định; Nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố 2, phường TA, thị xã BH, tỉnh Đắk Lăk; Chỗ ở hiện nay: Ấp ÔL, xã CD, thành phố PQ, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 05/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phan Đình H và bà Lê Thị Đ; Chị, em ruột có 05 người, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1993; Vợ Trần Thị Đ, sinh năm 1983 (đã ly hôn), con có 01 người sinh năm 2005; Tiền án; Tiền sự: Không; Bị tạm giam ngày 18-7-2022 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 02-2018, Phan Hồng Q và Trần Ngọc Châu làm hợp đồng viết tay, Châu bán cho Q 01 thửa đất có diện tích 136.017m2 tọa lạc tại ấp V, xã Gành Dầu, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, với số tiền 1 700.000.000đ, hiện trạng trên đất toàn cây rừng, không có thành quả lao động, thuộc tiểu khu 74, phân khu phục hồi sinh thái, rừng đặc dụng Vườn Quốc gia Phú Quốc. Đến ngày 15-6-2022, Q điện thoại cho Nguyễn Anh L (đang ở tỉnh Gia Lai) kêu L thuê thêm 02 người đến thành phố Phú Quốc cất nhà cho Q, trả công mỗi ngày 500.000 đồng, L đồng ý và kêu thêm Bùi Minh H, Nguyễn Văn Vũ cùng đi làm, H và Vũ đồng ý. Ngày 18-6-2022, Nguyễn Anh L, Bùi Minh H và Nguyễn Văn Vũ đến thành phố Phú Quốc gặp Phan Hồng Q và được Q đưa về chỗ ở thuộc ấp L, xã Cửa Dương, thành phố Phú Quốc nghỉ ngơi.

Đến khoảng 10 giờ ngày 19-6-2022, Q điều khiển xe ô tô hiệu NISSAN, biển số 47C - xxxxx (xe của Phan Hồng Q) chở L, H, Vũ đến tiểu khu 74, phân khu phục hồi sinh thái, rừng đặc dụng Vườn Quốc gia Phú Quốc tại ấp V, xã Gành Dầu, thành phố Phú Quốc chặt phá cây rừng. Q giao cho L 01 cây cưa máy; Vũ 01 cây dao; H 01 cây rựa làm dụng cụ chặt phá cây rừng. Khi đến khu vực chặt phá, L thấy trên đất toàn cây rừng, không có thành quả lao động nên hỏi Q nếu chặt hạ cây có bị Kiểm lâm bắt không, Q nói đất của Q mua có giấy tờ đầy đủ, nghe vậy L, Vũ và H tiến hành cưa, chặt hạ cây rừng từ ngày 20-6-2022 đến ngày 22-6-2022, Q tiếp tục giao cho H 01 cây cưa máy để làm công cụ cưa hạ cây rừng. Đến khoảng 13 giờ ngày 23-6- 2022, L, Vũ và H cưa, chặt hạ cây rừng trên diện tích 9.486,97m2, thiệt hại 173 cây rừng, có 89 cây có kích thước tính được khối lượng là 6,679m3 gỗ tròn, thì bị Đội quản lý, bảo vệ rừng thuộc Vườn Quốc gia Phú Quốc bắt quả tang.

* Tại Văn bản số 1024/SNNPTNT-CCKL ngày 28-6-2022 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - UBND tỉnh Kiên Giang xác định như sau: Diện tích 9.486,97m2 là rừng đặc dụng, thuộc tiểu khu 74 tại ấp V, xã Gành Dầu, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang giao Vườn Quốc gia Phú Quốc quản lý rừng và đất rừng theo bản đồ mốc Vườn Quốc gia và vùng đệm huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ 1/25.000 do Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang thực hiện, chủ đầu tư là Vườn Quốc gia Phú Quốc và UBND huyện Phú Quốc ký phê duyệt vào ngày 15-4-2004. Hiện nay, diện tích 9.486,97m2 chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, giao đất cho tổ chức, cá nhân nào sử dụng và chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.

* Tại Văn bản số: 341/VQG-PQLBV&PTR ngày 30/6/2022 của Vườn Quốc gia Phú Quốc xác định: Hiện nay, diện tích 9.486,97m2 UBND tỉnh Kiên Giang chưa có quyết định thu hồi đất của Vườn Quốc gia giao cho địa phương. Do đó, diện tích 9.486,97m2 vẫn là đất rừng đặc dụng do Vườn Quốc gia quản lý.

* Tại Văn bản số 01/UBND ngày 06-01-2023 của Ủy ban nhân dân xã Gành Dầu xác định: Diện tích 9.486,97m2 theo sơ đồ, tọa độ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phú Quốc cung cấp là đất rừng do Vườn Quốc gia Phú Quốc quản lý theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày 08-6-2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thành Vườn Quốc gia Phú Quốc.

* Thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu:

- 01 xe ô tô nhãn hiệu NISSAN, biển số 47C – xxxxx, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax, số sê-ri: F2LZL25DN70W 11, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động hiệu Galaxy A73, sê-ri: R5CT4154Y5V, đã sử dụng;

- 01 cưa máy xăng cầm tay hiệu STIHL màu cam, đã qua sử dụng;

- 01 cưa máy xăng cầm tay hiệu HYUNDAI màu trắng, đã qua sử dụng;

- 01 cây len, đã qua sử dụng;

- 02 cây dao lưỡi bằng kim loại, cán gỗ, đã qua sử dụng;

- 02 cây rựa lưỡi bằng kim loại, cán gỗ, đã qua sử dụng;

- 02 cây cuốc có lưỡi bằng kim loại, đã qua sử dụng;

- 500ml nhớt, 05 lít xăng và 06 lít xăng pha nhớt.

* Trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra, Vườn Quốc gia Phú Quốc yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí trồng và chăm sóc lại rừng số tiền 6.865.373đ, bị cáo đã bồi thường xong.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2023/HS-ST, ngày 24/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phan Hồng Q phạm tội “Huỷ hoại rừng”.

Áp dụng điểm d khoản 3 Điều 243; Điểm b, s khoản 1, Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Hồng Q 05 (năm) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam ngày 18/7/2022.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 28/02/2023 bị cáo Phan Hồng Q có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Phan Hồng Q có ý kiến thừa nhận bản thân đã thực hiện hành vi phạm tội như cấp sơ thẩm xét xử; Giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt và cung cấp thêm tài liệu chứng cứ chứng minh tình tiết giảm nhẹ gia đình có công với cách mạng, cụ thể cha và mẹ ruột của bị cáo tham gia kháng chiến được hưởng chế độ trợ cấp và là hội viên hội cựu chiến binh.

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến: Do bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Q, giảm cho bị cáo Q từ 6 tháng đến 1 năm tù so với hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Từ ngày 19-6-2022 đến ngày 23-6-2022, Phan Hồng Q thuê người khác cưa, chặt hạ cây rừng trên diện tích 9.486,97m2 rừng đặc dụng thuộc tiểu khu 74 tại ấp V, xã Gành Dầu, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, thiệt hại 173 cây rừng, trong đó có 89 cây có kích thước tính được khối lượng là 6,679m3 gỗ tròn, thì bị Đội quản lý, bảo vệ rừng thuộc Vườn Quốc gia Phú Quốc bắt quả tang. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử và kết án Phan Hồng Q về tội “Huỷ hoại rừng” theo điểm d khoản 3 Điều 243 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3]. Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức được hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến hoạt động quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường, cụ thể là xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 5 năm tù là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới cha, mẹ ruột là người có công với cách mạng, cụ thể tham gia kháng chiến được hưởng chế độ trợ cấp và là hội viên hội cựu chiến binh. Mặt khác, ở cấp sơ thẩm bị cáo chỉ thành khẩn khai nhận hành vi đã thực hiện mà không thừa nhận hành vi đó cấu thành tội phạm, đến tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã nhận thức được và thừa nhận hành vi của bản thân là phạm tội, đồng thời thể hiện rất ăn năn hối cải đối với hành vi bản thân đã thực hiện.

Do đó cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 và tình tiết khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm một phần hình phạt cho bị cáo là thỏa đáng, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Việc sửa án do bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, chứ cấp sơ thẩm không sai, không có lỗi.

[4]. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Hồng Q, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2023/HS-ST, ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng Điểm d khoản 3 Điều 243; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Phan Hồng Q 04 (Bốn) năm tù về tội “Huỷ hoại rừng”.

Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giam (ngày 18/7/2022).

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án:

Bị cáo Phan Hồng Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2023/HS-ST, ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội hủy hoại rừng số 73/2023/HS-PT

Số hiệu:73/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về