Bản án về tội hủy hoại rừng số 68/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 68/2022/HS-ST NGÀY 28/12/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 28 tháng 12 năm 2022, tại Hội trường nhà văn hóa UBND xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST – HS ngày 16 tháng 12 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hồ A M; sinh năm 1980 tại HH, Quảng Trị; Nơi cư trú: thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị; Dân tộc: Vân Kiều; Tôn giáo: Tin lành; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Con ông Hồ H (đã chết) và bà Hồ Thị H (đã chết);Vợ: Hồ Thị L, sinh năm 1983, trú thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị; Có 07 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2021;Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/6/2018 bị Công an huyện HH, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, chưa thi hành nhưng đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Bị can bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: Hồ Thị L; sinh năm 1983 tại HH, Quảng Trị; Nơi cư trú: thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị; Dân tộc: Vân Kiều; Tôn giáo: Tin lành; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: không biết chử; Con ông Hồ Văn C, sinh năm 1931, hiện trú tại thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị và bà Hồ Thị L (đã chết); Chồng: Hồ A M, sinh năm 1980, trú thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị; có 07 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2021;Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị can bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cu trú, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

+ Ủy ban nhân dân xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Văn Tăng, sinh năm 1978; chức vụ: Phó chủ tịch (văn bản ủy quyền ngày 31/12/2021) , có mặt.

+ Cộng đồng thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Văn Hậu, sinh năm 1992; chức vụ: Trưởng thôn;

Địa chỉ: thôn R, xã H, huyện HH, tỉnh Quảng Trị (văn bản ủy quyền ngày 31/12/2021), có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ A M: Bà Lê Thị Bích Loan – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Thị L: Bà Lê Thị Thủy Ngân – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Người phiên dịch: Bà Hồ Thị Mỹ Ly, sinh năm 1989; Nơi công tác: Văn phòng thống kê UBND xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 11/2021, trong một lần đi làm rẫy, Hồ Văn M phát hiện khu vực rừng mà người dân địa phương thường gọi là đồi Kìa (tức các lô 12, lô 12d, lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L thuộc xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị) có địa hình, vị trí khá bằng phẳng nên nảy sinh ý định chặt phá cây rừng ở khu vực này để lấy đất trồng trọt và chăn nuôi. Sau khi về nhà M trao đổi, bàn bạc với vợ là Hồ Thị L, mặc dù biết khu vực rừng trên do Nhà nước quản lý nhưng cả M và L đều thống nhất việc phát rừng tại địa điểm mà M đã chọn. Tiếp đó (cả hai không nhớ thời gian cụ thể), trong 03 ngày đầu Hồ A M và Hồ Thị L đem theo mỗi người một cây rựa tới địa điểm trên cùng nhau khoanh vùng rồi chặt phát dây leo và những cây gỗ nhỏ. Đến ngày thứ tư, M đem theo 01 máy cưa dạng bánh xích, tiến hành cưa hạ hết những cây gỗ lớn, L tiếp tục sử dụng rựa để chặt phá các cây nhỏ. Khi cả hai đang thực hiện hành vi thì bị người dân cộng đồng thôn R, xã HL (đơn vị được giao quản lý một phần diện tích rừng nói trên) phát hiện nên M và L chấm dứt việc chặt phá, để nguyên toàn bộ cây rừng bị cưa, chặt hạ đổ ngổn ngang trên đất.

Ngày 29/11/2021, Ban quản lý rừng cộng đồng thôn R, xã HL, huyện HH có đơn trình báo việc rừng tự nhiên bị xâm hại đến cơ quan chức năng.

Quá trình điều tra đã thu giữ:

- 01 cây rựa có chiều dài 68cm, phần lưỡi làm bằng kim loại dài 30cm, nơi rộng nhất của phần lưỡi rựa là 08cm; nơi hẹp nhất là 03cm, phần cán rựa được làm bằng gỗ và được bo tròn có chiều dài 38cm, đường kính 03cm. (Đây là cây rựa Hồ A M sử dụng để chặt hạ cây rừng).

- 317 cây rừng tự nhiên bị cưa hạ (trong đó: 238 cây thuộc lô 12, khoảnh 1 , tiểu khu 714L do UBND xã HL là chủ quản lý; 68 cây thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L do cộng đồng thôn R là chủ quản lý), do điều kiện giao thông khó khăn và số cây gỗ không còn giá trị sử dụng nên giao cho UBND xã HL và Cộng đồng thôn R bảo quản, quản lý cho đến khi có Bản án, quyết định của Tòa án.

Bản Kết luận giám định ngày 15/4/2022 của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị, kết luận:

- Vị trí khu vực rừng bị phá thuộc các lô 12, 12d và lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị.

- Tổng diện tích khu vực rừng bị phá: 1,5 ha, trong đó:

+ Diện tích thuộc lô 12, khoảnh 1, tiểu khu 714L: 0,88 ha.

+ Diện tích thuộc lô 12d, khoảnh 1 tiểu khu 714L: 0,04 ha.

+ Diện tích thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L: 0,58 ha.

* Khu vực rừng bị phá do UBND xã HL quản lý:

- Vị trí: Thuộc lô 12, khoảnh 1, tiểu khu 714L xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị.

- Diện tích: 0,88 ha - Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành: Rừng tự nhiên thứ sinh núi đất lá rộng thường xanh.

- Phân loại rừng theo mục đính sử dụng (chức năng): Rừng phòng hộ.

- Trữ lượng của diện tích rừng bị chặt phá: 62,061m3.

* Khu vực rừng bị phá do Cộng đồng thôn R quản lý:

Vị trí: Thuộc các lô 12d và lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị.

Tổng diện tích: 0,62 ha, trong đó:

- Thuộc lô 12d, khoảnh 1, tiểu khu 714L:

+ Diện tích: 0,04 ha.

+ Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành: Rừng tự nhiên thứ sinh núi đất lá rộng thường xanh.

+ Phân loại rừng theo mục đính sử dụng (chức năng): Rừng phòng hộ.

+ Trữ lượng của diện tích rừng bị chặt phá: 2,667m3.

- Thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L:

+ Diện tích: 0,58 ha.

+ Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành: Rừng tự nhiên thứ sinh núi đất lá rộng thường xanh.

+ Phân loại rừng theo mục đính sử dụng (chức năng): Rừng sản xuất.

+ Trữ lượng của diện tích rừng bị chặt phá: 29,211m3.

Bản Kết luận định giá tài sản số 13/KL-ĐGTS ngày 22/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện HH kết luận:

Tổng giá trị cây đứng rừng bị chặt phá là: 132.751.306 đồng. Trong đó:

+ Khu vực rừng bị phá do UBND xã HL quản lý: 97.187.499 đồng.

+ Khu vực rừng bị phá do cộng đồng thôn R quản lý: 35.383.857 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 68/CT – VKSHH ngày 15/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện HH, tỉnh Quảng Trị đã truy tố các bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L về tội “Hủy hoại rừng” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 243 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L phạm tội “Hủy hoại rừng” theo điểm e khoản 2 Điều 243 Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ A M từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù.

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Thị L từ 36 tháng tù, cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 cây rựa có chiều dài 68cm, phần lưỡi làm bằng kim loại dài 30cm, nơi rộng nhất của phần lưỡi rựa là 08cm; nơi hẹp nhất là 03cm, phần cán rựa được làm bằng gỗ và được bo tròn có chiều dài 38cm, đường kính 03cm của Hồ A M.

- Tịch thu, tiêu hủy: 317 cây rừng tự nhiên bị cưa hạ (trong đó: 238 cây thuộc lô 12, khoảnh 1, tiểu khu 714L do UBND xã HL là chủ quản lý; 68 cây thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L do cộng đồng thôn R là chủ quản lý), hiện UBND xã HL và Cộng đồng thôn Ra Ta đang bảo quản, quản lý.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và các Điều 288, 584, 585, 586, 587 và 589 của Bộ luật dân sự buộc các bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L phải liên đới bồi thường cho UBND xã HL và Cộng đồng thôn R, xã HL.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Người bào chữa cho các bị cáo Hồ A M: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hồ A M 36 tháng tù cho hưởng án treo;

Người bào chữa cho các bị cáo Hồ Thị L: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Thị L 30 tháng tù cho hưởng án treo;

Ý kiến của bị hại: Đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân xã HL ông Hồ Văn Tăng và đại diện theo ủy quyền của Cộng đồng thôn R , xã HL ông Hồ Văn Hậu: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật và yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo mong muốn Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, gia đình các bị cáo khó khăn, con đông không ai chăm sóc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện HH, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện HH, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi bị truy tố: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử khẳng định:

Vào khoảng tháng 11/2021, Hồ A M và Hồ Thị L đã có hành vi dùng rựa, máy cưa chặt, phát rừng, gồm: 9.200m2 rừng phòng hộ tại các lô 12, 12d, 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L thuộc xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị. Trong đó: Rừng do UBND xã HL quản lý thuộc lô 12, khoảnh 1, tiểu khu 714L là 8.800m2 rừng phòng hộ; Rừng do cộng đồng thôn R quản lý thuộc các lô 12d và lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L là 400m2 rừng phòng hộ. Vì vậy, hành vi của các bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L đã phạm tội “Hủy hoại rừng” với tình tiết định khung “ Rừng phòng hộ có diện tích từ 7.000 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2)”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm e khoản 2 Điều 243 của Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính chất, hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm và hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã thực hiện hành vi hủy hoại 9.200m2 rừng phòng hộ. Ngoài ra, còn có hành vi hủy hoại 5.000m2 rừng sản xuất nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hồi cải” về hành vi của mình; hoàn cảnh gia đình của các bị cáo khó khăn, có mẹ là người có công với nhà nước nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là xâm phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống con người.

Xét vai trò thực hiện của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo đều cố ý cùng thực hiện tội phạm nên các bị cáo là đồng phạm trong vụ án nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, vì vậy thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo Hồ A M đóng vai trò là người khởi xướng, tích cực trong việc thực hiện hành vi chặt phá cây rừng, bị cáo Hồ Thị L tham gia với vai trò giúp sức do đó cần xử phạt mức án Hồ A M cao hơn bị cáo Hồ Thị L. Đối với Bị cáo M cần áp dụng khoản 1 Điều 38 buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đủ tác dụng giáo dục , răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo Hồ Thị L (vợ của bị cáo M) có nhiều tình tiết giảm nhẹ, gia đình lại đông con (07 người con), bị cáo thực hiện hành vi thứ yếu là người giúp sức nên Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng Khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo củng đủ giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử thấy yêu cầu của các bị hại là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 288, 584, 585, 586, 587 và Điều 589 của Bộ luật dân sự buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho các bị hại, cụ thể: bồi thường cho UBND xã HL số tiền là 97.187.499 đồng; bồi thường cho Cộng đồng thôn R, xã HL số tiền là 35.383.857 đồng.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- 01 cây rựa có chiều dài 68cm, phần lưỡi làm bằng kim loại dài 30cm, nơi rộng nhất của phần lưỡi rựa là 08cm; nơi hẹp nhất là 03cm, phần cán rựa được làm bằng gỗ và được bo tròn có chiều dài 38cm, đường kính 03cm của Hồ A M dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy.

Vật chứng hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH, tỉnh Quảng Trị quản lý và có đặc điểm được mô tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện HH và Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH.

- Đối với số cây gôc bị cưa hạ trong vụ án, hiện UBND xã HL và Cộng đồng thôn R, xã HL đang bảo quản, quản lý. Tại Biên bản làm việc giao vật chứng ngày 23/11/2022: Số cây gỗ bao gồm 317 cây rừng tự nhiên bị cưa hạ (trong đó: 238 cây thuộc lô 12, khoảnh 1 , tiểu khu 714L do UBND xã HL là chủ quản lý; 68 cây thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L do cộng đồng thôn R là chủ quản lý) do điều kiện giao thông khó khăn trong việc vận chuyển tang vật và số cây gỗ trên không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình tịch thu, tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.318.782 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hồ A M Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 243; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g hoản 1 Điều 52 và khoản 1,2 ,5 Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hồ Thị L.

Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và các Điều 288, 584, 585, 586, 587 và 589 của Bộ luật dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị các cáo Hồ A M và Hồ Thi L phạm tội “Hủy hoại rừng” Xử phạt: Bị cáo Hồ A M 39( Ba mươi chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Thị L 36( Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/12/2022).

Giao bị cáo Hồ Thị L cho Ủy ban nhân dân xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp bị cáo Hồ Thị L thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L liên đới bồi thường cho các bị hại, cụ thể: Bồi thường cho UBND xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị số tiền 97.187.499 đồng và bồi thường cho Cộng đồng thôn R, xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị số tiền 35.383.857 đồng.

“Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự”.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 cây rựa có chiều dài 68cm, phần lưỡi làm bằng kim loại dài 30cm, nơi rộng nhất của phần lưỡi rựa là 08cm; nơi hẹp nhất là 03cm, phần cán rựa được làm bằng gỗ và được bo tròn có chiều dài 38cm, đường kính 03cm Vật chứng hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH, tỉnh Quảng Trị quản lý và có đặc điểm được mô tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện HH và Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH.

- Tịch thu, tiêu hủy: Số cây gỗ bao gồm 317 cây rừng tự nhiên bị cưa hạ (trong đó: 238 cây thuộc lô 12, khoảnh 1 , tiểu khu 714L do UBND xã HL là chủ quản lý; 68 cây thuộc lô 13, khoảnh 1, tiểu khu 714L do cộng đồng thôn R là chủ quản lý). Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH, tỉnh Quảng Trị phối hợp với UBND xã HL, huyện HH, tỉnh Quảng Trị và Cộng đồng thôn R, xã HL,huyện HH, tỉnh Quảng Trị tịch thu, tiêu hủy theo Biên bản làm việc về giao vật chứng ngày 23/11/2022 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện HH, Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH, Viện kiểm sát nhân dân huyện HH, Hạt kiểm lâm huyện HH, Phòng tài chính kế hoạch huyện HH, UBND xã HL và Cộng đồng thôn R, xã HL.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Hồ A M và Hồ Thị L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.318.782 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo và các bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại rừng số 68/2022/HS-ST

Số hiệu:68/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về