Bản án về tội hủy hoại rừng số 105/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 105/2022/HS-PT NGÀY 18/04/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 18/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2022/TLPT-HS ngày 21/02/2022, đối với bị cáo H’P Niê, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: H’P NIÊ; sinh ngày: 30/6/1994; tại tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nữ; nơi cư trú: Xã P, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Êđê; tôn giáo: Tin lành; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; con ông Y B1 Ayun và bà H U Niê; bị cáo có chồng là Y E Niê (đã chết) và có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo H’L Niê, H’A Niê nhưng không có kháng cáo, kháng nghị. Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/3/2021, H’P đi cùng với H’L Niê, H’A Niê, Y T Niê đi vào vị trí rừng tại lô 40, 56 khoảnh 5, tiểu khu 541 Công Ty TNHH lâm nghiệp W, xã K, huyện G, tỉnh Đắk Lắk để chặt phá, đốt cây rừng, trái phép lấy đất làm rẫy thì H’A Niê, H’L Niê, Y T Niê đồng ý. Khi đi, H’P chở H’L bằng xe mô tô biển kiểm soát 47P9-2034, Y T chở H’A bằng xe mô tô biển kiểm soát 47U1-058.05, mang theo 04 con dao rựa, cơm nước. Đi theo sự chỉ dẫn của H’P đến khu vực lâm trường buôn W. Đến nơi cả 4 người sử dụng dao rựa mang theo chặt hạ cây rừng xuống, chặt ngắn xếp thành đống chờ khô để đốt, dọn đất làm rẫy, hết ngày 15/3/2021 thì về nhà. Đến ngày 16/3/2021 cả bọn quay lại để chặt dọn cây rừng. Chiều ngày 16/3/2021 đã chặt hạ toàn bộ cây rừng trên diện tích đất H’P đã chỉ trước đó. Khi vừa gom lại hết cây rừng đã chặt hạ tại vị trí rừng trên thì bị lực lượng bảo vệ rừng Công ty TNHH lâm nghiệp Buôn W phát hiện.

Tại bản kết luận giám định ngày 02/4/2021 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk kết luận: Tổng diện tích rừng bị phá là 0,7937 ha; lô rừng bị phá thuộc lô 40 và 56, khoảnh 5, tiểu khu 541 thuộc Công ty TNHH MTV LN Buôn W quản lý, bảo vệ.

Tại bản kết luận giám định ngày 05/5/2021 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk kết luận: Loại rừng bị phá trái pháp luật: Phân chia theo nguồn gốc hình thành: Rừng tự nhiên; Theo mục đích sử dụng: Rừng sản xuất; Theo điều kiện lập địa: Núi đất; Theo loài cây: Lá rộng, rụng lá; Theo trữ lượng: Rừng nghèo kiệt (trữ lượng 24,351 m3/01 ha)

* Loại rừng bị phá trái pháp luật: rừng sản xuất là rừng tự nhiên lá rộng rụng lá nghèo kiệt núi đất (RLK); trữ lượng cây rừng bị chặt hạ: Từ chối xác định khối lượng, chủng loại lâm sản thiệt hại (đối với khối lượng, chủng loại không xác định được) là do hiện trường bị xáo trộn; đa số thân cây không còn nằm tại hiện trường, một số cành ngọn đã chất thành đống và đốt dọn; gốc cây bị chặt hạ đã tái sinh chồi.

Tại bản kết luận định giá số 75a/KL-HĐĐGTS ngày 05/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Cư M’gar kết luận: giá trị thiệt hại của 0,7937 ha rừng có đặc điểm: rừng sản xuất là rừng tự nhiên lá rộng rụng lá nghèo kiệt núi đất (RLK), trữ lượng: rừng nghèo kiệt tại thời điểm ngày 16/3/2021 là 51.201.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo H’P Niê, H’L Niê, H’A Niê phạm vào tội “Huỷ hoại rừng”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo H’P Niê 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo H’L Niê, H’A Niê; quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/01/2022: Bị cáo H’P Niê kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H’P Niê 01 (một) năm tù về tội “Huỷ hoại rừng” theo điểm b khoản 1 Điều 243 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát chỉ mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H’P Niê khai nhận toàn bộ diễn biến, hành vi như bản án sơ thẩm đã quy kết, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Trong các ngày 15/3/2021 và 16/3/2021 H’P cùng H’L Niê, H’A Niê, Y T Niê rũ nhau đi đến khu rừng sản xuất tại vị trí lô 40 và 56, khoảnh 5, tiểu khu 541 thuộc Công ty TNHH lâm nghiệpBuôn W quản lý, thuộc địa giới hành chính, xã K, huyện G, tỉnh Đắk Lắk, để chặt phá, đốt cây rừng, trái phép lấy đất làm rẫy với diện tích 7.937 m2 rừng sản xuất, thì bị phát hiện. Thiệt hại sảy ra là 51.201.000 đồng. Với hành vi nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Huỷ hoại rừng” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 243 BLHS Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt và cho hưởng án treo của bị cáo nhận thấy: Mc án 01 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xử phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội theo điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, về phần hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo H’P Niê phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giao nộp giấy xác nhận gia đình bị cáo là diện hộ nghèo và bị cáo có đơn xin được miễn án phí. Đối chiếu với điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng tiền án phí. Thì bị cáo được miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và phúc thấm, cũng như 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo H’P Niê – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

Tuyên bố: Bị cáo H’P Niê phạm tội “Hủy hoại rừng”.

[2] Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 243; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo H’P Niê 01 (một) năm tù về tội “Hủy hoại rừng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt Thi hành án.

[3] Về án phí: Áp dụng Điều điểm đ, khoản1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng tiền án phí.

Bị cáo H’P Niê được miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và phúc thấm, 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

511
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại rừng số 105/2022/HS-PT

Số hiệu:105/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về