Bản án về tội hiếp dâm số 73/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 73/2024/HS-PT NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI HIẾP DÂM

Ngày 25 tháng4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:22/2024/TLPT-HS ngày 21tháng 02 năm 2024 đối vớibị cáo Phạm Quốc C, do có kháng cáo của đại diện bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2023/HS-ST ngày 12 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh G.

- Bị cáobị kháng cáo:Phạm Quốc C, sinh năm1972 tại huyện G, tỉnh G; nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh G; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T (đã chết) và bàNguyễn Thị H; có vợlàNguyễn Thị P và02 ngườicon, sinh năm 1996 và năm 2000; tiền án: không;tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam: không (Có mặt).

- Người kháng cáo: Nguyễn Thị L, sinh năm 1955, đại diện hợp pháp của bị hại Trịnh Thị L1(Có mặt).

Cư trú: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh G.

- Bị hại:Trịnh Thị L1, sinh năm 1988 (Có mặt) Cư trú: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh G.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:Nguyễn Thị L, sinh năm 1955- mẹ ruột bị hại L1(Có mặt).

Cư trú: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh G.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Vũ Thị L2- trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh K(Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08 tháng 4 năm 2023, Phạm Quốc Cđi từ nhà đến nhà bà Trần Thị L3ở cùng ấp H, xã H, huyện G, tỉnh G. Khi đến nơithì bà L3 không có ở nhà, chỉ có Trịnh Thị L1(Con bà L3, bị khuyết tật, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi) ở nhà một mình đang cầm cây launhà để cặp mé sông, sau đó đi lên nhà. Thấy L1 đi vào nhà thì C đi theo phía sau, lúc này C nảy sinh ý định quan hệ tình dục với L1 nên khi L1 đi vào phòng xem tivi thì Cđi theo và đóng cửa phòng lại. Khi L1ngồi trên giường thì Côngtiến lại dùng tay nắm vai của L1đẩy nằm xuống giường, sau đódùng tay vén áo L1lên qua khỏi ngực và sờ ngực L1khoảng 02 đến 03 phút. Khi dương vật cương cứng,Ctiếp tục kéo quần của L1qua khỏi đầu gối, lúc này L1la “hư hư” đồng thời kéo quần lại. Ctự cởi quần ra, đưa dương vật vào âm đạo của L1quan hệ tình dục. Khi đang thực hiện hành vi thì C ngước lên thấy Lê Trường Sđang đứng ngoài cửa sổ chứng kiến diễn biến sự việc.Bị Sphát hiện nên Ckéo quần lên đi ra ngoài. Sau đóLê Trường Sđến Công an xã Htrình báo sự việc. Quá trình làm việc, C thừa nhậnhành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số: 264/KL-PY, ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh K, đã kết luận như sau:

1. Các kết quả chính:

- Kết quả khám lâm sàng:

+ Soi tươi: Không tìm thấy tinh trùng trong dịch phết âm đạo.

+ HCG thai nhanh: Âm tính.

2. Kết luận:

- Màng trinh có vết rách cũ vị trí 6 giờ, màn trinh và âm đạo dãn rộng.

- Đã có vật có đường kính từ 2,5cm trở lên đưa qua lỗ màn trinh vào âm đạo nhiều lần, thời điểm không xác định.

- Vết sước rách niêm mạc vùng hố tiền đình âm hộ chưa liền còn đang đóng mày giả mạc và tấy đỏ phù hợp với thời điểm xảy ra vụ việc.

Tại bản kết luận giám định pháp y về kỹ thuật số - điện tử của phòng K1Công an tỉnh K, đã kết luận như sau:

- Không tìm thấy dữ liệu tin nhắn lưu trữ trong SIM.

- Đã tìm thấy và trích xuất dữ liệu lưu trữ trong điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI1: 358176102573199; số IMEI2:

358177102573197, chi tiết thể hiện trong tập tin “457-2023.iso” dung lượng 4.66GB kèm theo.

- Kèm theo kết luận giám định: 01 (một) USB có chứa các dữ liệu liên quan.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số: 223/KLGĐ, ngày 12 tháng 6 năm 2023của Trung tâm P1, kết luận đối với Trịnh Thị L1như sau:

- Về y học: Trước, trong, sau khi xảy ra vụ việc (ngày 08/4/2023) và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Chậm phát triển tâm thần vừa (F17 - ICD10).

- Về năng lực: Tại thời điểm xảy ra vụ việc (ngày 08/4/2023) và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

- Về vật chứng trong vụ án thu giữ được: Một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI1: 358176102573199, số IMEI2: 358177102573197, máy đã qua sử dụng Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2023/HSST ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh G đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 141, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38, Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc C phạm tội “Hiếp dâm”.

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc C18 (mười tám) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày ngày bị cáo vào chấp hành án.

2.Buộc bị cáo Phạm Quốc Cbồi thường cho bị hại Trịnh Thị L120.000.000đ, nhưng khấu trừ vào số tiền 20.000.000đ mà bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng theo biên lai thu tiền số 0006952 ngày 03 tháng 10 năm 2023.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng,án phívà báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày22/12/2023,đại diện hợp pháp của bị hại L1là bà Nguyễn Thị Lcó đơn kháng cáo với nội dungyêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáoCvà tăng mức bồi thường thiệt hại lên 72.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện hợp pháp của bị hại L1 là bà Nguyễn Thị Lcó ý kiến: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G có ý kiến: Đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, sửa bản án sơ thẩm, áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáoPhạm Quốc C, xử phạt bị cáoCtừ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù. Không chấp nhận phần kháng cáo của đại diện bị hại về yêu cầu tăng bồi thường thiệt hại.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hạiL1là bà Vũ Thị L2có ý kiến: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại,tăng hình phạt đối với bị cáo lên mức như đại diện Viện kiểm sát đề nghị; buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại tổng số tiền như đại diện bị hại yêu cầu.

- Bị cáo Phạm Quốc Ccó ý kiến: Thừa nhận bản thân thực hiện hành vi phạm tội như truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm, xin xem xét giảm hình phạt. Không đồng ý bồi thường thêm như đại diện bị hại yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:Xét đơn kháng cáo của đại diện bị hạivề nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáolà đúng quy định củaBộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2]Về nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm:

Ngày 08/4/2023, lợi dụng việc Trịnh Thị L1là người có bệnh lý tâm thần, chậm phát triển tâm thần vừa, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đang ở nhà một mình, Phạm Quốc Cđã thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của L1, bị người khác phát hiện. Do đó cấp sơ thẩm truy tố, xét xử và kết án Phạm Quốc Cvề tội hiếp dâm là có căn cứ, đúng quy định.

[3] Xét kháng cáo của đại diện bị hại:

* Phần kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với bị hại là người có bệnh lý tâm thần, chậm phát triển tâm thần vừa, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đồng thời có giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền xác định là khuyết tật đặc biệt nặng, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là bỏ sót tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ việc cấp sơ thẩm bỏ sót tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, dẫn đến áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 18 tháng tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không phù hợp,chưa xem xét áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bởi lẽ, mặc dù bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự,nhưng đồng thời cũng có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nên việc áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không phù hợp, không tương xứng với tình chất, mức độ phạm tội. Do đó, kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt của đại diện bị hại là có cơ sở để chấp nhận.

Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn có sai sót cần rút kinh nghiệm, đó là: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật tình sự, có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù là khung nhẹ nhất của Điều 141 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này nếu có đủ điều kiện để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 2 năm tù) thì áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự mới đúng, nhưng cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự là không đúng quy định.

* Phần kháng cáo yêu cầu tăng bồi thường thiệt hại:

Theo chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xác định được, hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị hại, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bị hại, bị hại không phải điều trị thương tích để phục hồi sức khỏe và cũng không có kết luận của cơ quan có thẩm quyền xác định bị hại có bị tổn thương cơ thể do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra như thế nào. Do đó, trong trường hợp này bị hại được bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự. Theo chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, bị hại L1và đại diện hợp pháp không có các thiệt hại quy định tại khoản 1 Điều 592 Bộ luật dân sự, nên chỉ được bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định tại khoản 2 Điều 592 Bộ luật dân sự, cụ thể mức bồi thường do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Trong khi theo quy định hiện hành của Nhà nước thì mười lần mức lương cơ sở bằng 19.000.000đ (1.900.000đ x 10 lần). Đối với vụ án này, do giữa bị cáo và đại diện bị hại không tự thỏa thuận được mức bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần nên Hội đồng xét xử phải tính theo quy định pháp luật, mức tối đa là 19.000.000đ, trong khi bị cáo tự nguyện bồi thường 20.000.000đ là đã cao hơn mức pháp luật quy định. Do đó, kháng cáo yêu cầu tăng số tiền bồi thường lên 72.000.000đ của đại diện bị hại không có sở để chấp nhận.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện bị hại, quyết định xử phạt bị cáo mức hình phạt tù trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự; không chấp nhận phần kháng cáo yêu cầu tăng số tiền bồi thường thiệt hại.

[4] Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; các điều 11, 12 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, do kháng cáo được chấp nhận một phần nên đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2023/HSST ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Gkhông có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét đến.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện bị hại Trịnh Thị L1, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2023/HSST ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh G.

Căn cứ khoản 1 Điều 141, điểm b, s khoản 1 Điều 51;điểm k khoản 1 Điều 52;Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc C02 (hai) năm tù về tội “Hiếp dâm”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

2. Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 592 Bộ luật dân sự:

Buộc bị cáo Phạm Quốc Cphải bồi thường tổn thất tinh thần cho bị hại Trịnh Thị L1, có người đại diện hợp pháp là bà Nguyễn Thị L20.000.000đ(Nguyễn Văn Kđã nộp thay bị cáo Phạm Quốc C20.000.000đ tạiChi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng theo biên lai thu tiền số 0006952 ngày 09/10/2023. Đại diện hợp pháp của bị hại L1liên hệ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng để nhận tiền bồi thường từ số tiền đã nộp nêu trên).

3. Về án phí,căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; các điều 11, 12 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:Đại diện hợp pháp của bị hại L1không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2023/HSST ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh G không có kháng cáo;không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm số 73/2024/HS-PT

Số hiệu:73/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về