Bản án về tội hiếp dâm số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN C, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 30/12/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM

Ngày 30 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân C, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Mai Văn L, sinh ngày 19/10/1999 tại thị trấn V, huyện V, tỉnh B; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh B; nghề nghiệp: làm Nông; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Bana; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn L, sinh năm 1981 (chết) và bà Đinh Thị T, sinh năm 1983; anh, chị, em: có 01 em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 05/7/2021, bị Công an huyện Vân C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác nhưng chưa chấp hành xong. Nhân thân: Ngày 06/02/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Vân C xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; ngày 26/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Vân C xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chấp hành án xong ngày 25/02/2019. Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Mai Văn L: Bà Phan Thị Ngọc H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định, “có mặt”.

- Bị hại:

1. Chị Trần Thị T, sinh năm 2000; nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh B.

2. Chị Hà Thị Kim O, sinh năm 1977; nơi cư trú: Làng H, xã C, huyện V, tỉnh B.

3. Chị Đoàn Thị M, sinh năm 1987; nơi cư trú: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh B.

(Các chị Trần Thị T, Hà Thị Kim O, Đoàn Thị M đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Đoàn Thị M và Hà Thị Kim O: Bà Lê Tôn Nữ Kim Y - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định, “có mặt”.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992;

2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1990;

3. Anh La O Qsinh năm 1989;

4. Anh Đinh Văn M, sinh năm 1978;

5. Chị Lê Thị Đ, sinh năm 1974;

Đồng cư trú: Khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh B.

6. Anh Đoàn Văn O, sinh năm 1993;

7. Anh Đinh X, sinh năm 1993;

Đồng cư trú: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh B.

(Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị N, La O Q, Đinh Văn M, Lê Thị Đ, Đoàn Văn O, Đinh X đều vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ tháng 5 năm 2020 đến tháng 6 năm 2022, Mai Văn L đã thực hiện nhiều vụ “Hiếp dâm” và “Trộm cắp tài sản” tại địa bàn thị trấn Vân C và xã Canh thuận, huyện Vân C, tỉnh Bình Định, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ ngày 14/5/2020, Mai Văn L đột nhập vào nhà chị Trần Thị T ở khu phố Thịnh Văn 1, thị trấn Vân C, Vân C, Bình Định để tìm tài sản trộm cắp thì phát hiện chị T đang ngủ trên giường và có để 01 điện thoại OPPO F11 Pro bên cạnh. L liền lấy điện thoại của chị T rồi cất giấu trong người. Sau khi lấy điện thoại, L nảy sinh ý định giao cấu với chị T nên L lên giường nằm đè lên người chị T, dùng tay bịt miệng và tay còn lại cởi quần chị T để giao cấu với chị T. Lúc này, chị T dùng tay đẩy và dùng chân đạp L xuống giường, đồng thời hô hoán. Sợ bị phát hiện, L đã bỏ chạy ra khỏi nhà cùng điện thoại. Khi chạy thoát, L đã làm rớt chiếc áo của mình trong nhà chị T. Chiếc điện thoại chiếm đoạt được của chị T, L giữ sử dụng một thời gian rồi vứt bỏ.

Vụ thứ hai: Vào hồi 23 giờ 30 phút ngày 08/12/2020, L đột nhập vào nhà bà Hà Thị Kim O ở làng H, xã C, huyện V, tỉnh B thì phát hiện chị O đang ngủ tại phòng buồng và có để điện thoại di động OPPO Realme đang sạc pin bên cạnh, L liền lấy điện thoại cất giấu trong người. Sau khi lấy điện thoại, L nảy sinh ý định giao cấu với chị O nên L đi ra phía sau lấy con dao rồi quay lại nằm đè lên người, dùng con dao kề vào cổ chị O đe dọa: “Chị im, đừng ồn ào nếu không sẽ cắt cổ!”, đồng thời tay còn lại cởi quần của chị O và thực hiện hành vi giao cấu với chị O. Do bị đe dọa sợ hãi nên chị O đã để L giao cấu. Sau khi giao cấu xong, L tiếp tục đe dọa chị O: “Chị không nói với ai, nếu không tôi sẽ quay lại đâm!”. Sau đó, L chạy thoát ra ngoài cùng với chiếc điện thoại đã chiếm đoạt được của chị O. L giữ sử dụng điện thoại này một thời gian rồi vứt bỏ.

Vụ thứ ba: Khoảng 01 giờ ngày 09/6/2022, Mai Văn L đột nhập vào nhà chị Đoàn Thị M ở khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh B tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi L vào bên trong lục lọi không có tài sản gì, L thấy chị M đang ngủ trong màn trên nhà sàn nên nảy sinh ý định giao cấu với chị M. L liền lấy con dao trong nhà rồi đi lên nhà sàn nằm đè lên người chị M, dùng dao kề cổ, dùng tay kéo cởi quần của chị M để giao cấu. Chị M không đồng ý nên đã dùng tay đẩy ra không cho L giao cấu, đồng thời la lên. Do sợ bị phát hiện nên L dùng gối bằng vải đắp vào mặt chị M, vứt bỏ con dao tại nhà chị M rồi tẩu thoát ra ngoài, đi về nhà của mình ngủ.

Bị hại Đoàn Thị M không yêu cầu giám định thương tích, Hà Thị Kim O không yêu cầu giám định pháp y về tình dục.

Theo Kết luận định giá tài sản số 19, 20/KL-HĐĐĐG cùng ngày 13/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vân C xác định: 01 (một) Điện thoại di động hiệu OPPO Realme có trị giá là 2.880.000 đồng; 01 (một) Điện thoại di động hiệu OPPO F11 Pro có trị giá là 6.240.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 9.120.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân C đã tạm giữ 01 con dao cán gỗ có chiều dài 11cm, rộng 03cm, phần lưỡi bằng sắt có chiều dài 12cm, rộng 03cm; 01 chiếc áo thun màu đỏ, ngắn tay, có cổ.

Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSVC ngày 28/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Mai Văn L về các tội: “ Hiếp dâm” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 và “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Mai Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh luận.

Các bị hại Trần Thị T và Đoàn Thị M đều không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Bị hại Hà Thị Kim O yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 2.880.000 đồng, gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại O nhưng vì hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên bị hại O đã cho lại số tiền trên cho gia đình bị cáo và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Mai Văn L về các tội “ Hiếp dâm” và tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 141; Điều 38;

điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mai Văn L từ 08 đến 09 năm tù về tội “Hiếp dâm”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mai Văn L từ 12 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội danh trên đối với bị cáo Mai Văn L theo quy định.

Về dân sự: Các bị hại Trần Thị T, Đoàn Thị M và Hà Thị Kim O đều không yêu cầu bị cáo Mai Văn L phải bồi thường nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án gồm: 01 con dao cán gỗ có chiều dài 11cm, rộng 03cm, phần lưỡi bằng sắt có chiều dài 12cm, rộng 03cm và 01 chiếc áo thun màu đỏ, ngắn tay, có cổ.

Trợ giúp viên pháp lý, bà Phan Thị Ngọc H là người bào chữa cho bị cáo Mai Văn L: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và Điều luật áp dụng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 141; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 05 đến 07 năm tù về tội “Hiếp dâm” và từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản’. Về dân sự: Các bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Trợ giúp viên pháp lý, bà Lê Tôn Nữ Kim Y là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Đoàn Thị M và Hà Thị Kim O: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, Điều luật áp dụng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 141; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điều 38 Bộ luật Hình sự xem xét về hình phạt đối với bị cáo theo quy định pháp luật. Về dân sự: Các bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên Tòa, Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn L khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại; những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Để thỏa mãn dục vọng nên Mai Văn L đã dùng vũ L đe dọa để giao cấu trái ý muốn với các bị hại như chị Trần Thị T ở Khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh B; chị Hà Thị Kim O ở Làng H, xã C, huyện V, tỉnh B và chị Đoàn Thị M ở Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh B. Trong đó vụ thứ nhất và vụ thứ hai, ngoài hành vi hiếp dâm, bị cáo L còn lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu OPPO F11 Pro của chị T trị giá là 6.240.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu OPPO Realme trị giá là 2.880.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 9.120.000 đồng. Do đó, bị cáo L đã phạm các tội “ Hiếp dâm” với tình tiết “đối với hai người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 Bộ luật Hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C truy tố bị cáo về các tội “ Hiếp dâm” và “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Các hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự tại địa phương , gây tâm lý lo lắng trong nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng L trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ các hành vi của mình là vi phạm pháp luật n hưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, cần phải xử lý bị cáo nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự nhằm để răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 06/02/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Vân C xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Vân C xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành án xong ngày 25/02/2019. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 02 chiếc điện thoại nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại Hà Thị Kim O, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về dân sự: Các bị hại Trần Thị T, Đoàn Thị M không yêu cầu bị cáo Mai Văn L phải bồi thường. Riêng bị Hại Hà Thị Kim O đã nhận 2.880.000 đồng do gia đình bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả, nhưng hị hại O đã cho lại số tiền bồi thường trên cho gia đình bị cáo và không yêu cầu gì thêm nên Tòa không xem xét giải quyết.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) “thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định và hoàn cảnh gia đình khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân C là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Xét đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo về áp dụng Điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[10] Xét đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Đoàn Thị M và Hà Thị Kim O là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 141; khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 55 điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mai Văn L phạm tội “Hiếp dâm” và tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Mai Văn L 08 năm tù về tội “Hiếp dâm” và 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội danh là 09 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 14/6/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án gồm: 01 con dao cán gỗ có chiều dài 11cm, rộng 03cm, phần lưỡi bằng sắt có chiều dài 12cm, rộng 03cm và 01 chiếc áo thun màu đỏ, ngắn tay, có cổ. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân C và Chi cục thi hành án huyện Vân C).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Mai Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về