TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUÝ, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 30/11/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 30 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2022/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 11 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2022/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Tấn L, sinh ngày: 15/11/1990 Nơi sinh: Tỉnh B Nơi cư trú: thôn Phú An, xã Ngũ Phụng, huyện P, tỉnh B Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 11/12; nghề nghiệp: Làm biển; con ông: Nguyễn Kim B và bà Nguyễn Thị K; vợ: Đỗ Thị C; con: Nguyễn Gia B, sinh năm 2017 Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Ngày 30/5/2017 có hành vi “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác” bị Công an huyện P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 200.000 đồng.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P.
*Người bị hại: Chị Vũ Thị Thu T - Sinh năm: 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: 78/8/2 Tôn Thất Thuyết, Quận 4, TP H.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại:
Ông Bùi Quang H – sinh năm: 1971 (Có mặt) Địa chỉ: A27, Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận X, TP H.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị K – sinh năm: 1963 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Phú An, xã Ngũ Phụng, huyện P, tỉnh B.
* Người làm chứng:
Bà Trần Thị L – sinh năm: 1968 (Vắng mặt) Đại chỉ: Thôn Phú An, xã Ngũ Phụng, huyện P, tỉnh B.Tam Thanh, huyện P, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ ngày 31/7/2022, bị cáo Nguyễn Tấn L điều khiển xe máy hiệu Sirius biển số 86B9-xxxxx theo đường Nguyễn Tri Phương hướng từ xã Long Hải về xã Ngũ Phụng, khi về đến thôn Phú An, xã Ngũ Phụng thì Nguyễn Tấn L gặp chị Vũ Thị Thu T đang đi bộ trên đường Nguyễn Tri Phương để tìm đồ đạc bị rơi trước đó. Khi thấy T thì L điều khiển xe quay lại rồi hỏi T đi đâu, T trả lời đang đi tìm đồ bị rơi. Qua nói chuyện với nhau, Nguyễn Tấn L tự nhận mình là người chạy xe ôm và nói chị T lên xe ngồi để L chở đi tìm, do đi một đoạn và tìm không thấy nên lúc này T nói “chắc không có đâu” và hai người không đi tìm nữa. Sau đó, Vũ Thị Thu T đồng ý để Nguyễn Tấn L chở đi chơi rồi chị T sẽ trả tiền công cho L sau. Lúc này, Nguyễn Tấn L điều khiển xe chở T đi đến bãi biển gần Bãi Phủ thuộc thôn Hội An, xã Tam Thanh để T dạo chơi một lúc rồi T nói L chở đi về. Trên đường về, Nguyễn Tấn L đã nảy sinh ý định quan hệ tình dục với T nên khi tới đoạn đường đất vắng người qua lại ở trước rẫy của ông Nguyễn Văn B thuộc thôn Hội An, xã Tam Thanh thì L dừng xe lại. Lúc này khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi dừng xe lại thì Nguyễn Tấn L nói “Cho anh quan hệ một cái rồi về” nhưng T không đồng ý, đòi L chở về và xin tha cho mình. Thấy vậy nên Nguyễn Tấn L dùng hai tay ôm người T rồi vật ngã xuống đất, T nằm ngửa còn L ngồi lên trên, T vùng vẫy chống cự. L đã dùng tay lột áo len bên ngoài rồi giật đứt áo dây bên trong, xong L dùng tay kéo quần của T xuống đầu gối và dùng chân đạp cái quần ra khỏi hai chân của T, tiếp tục L tự cởi hết quần áo của mình ra. Cởi đồ xong thì L nằm đè lên người, dùng miệng hôn lên miệng của T nhưng T la hét và dùng tay xô đẩy L ra thì bị L cắn vào miệng T. Thấy hôn không được thì L nằm xuống dùng một tay đè lên người T, một tay cầm dương vật đưa vào âm đạo của T thì T vùng vẫy người và khép chặt hai chân lại để chống cự. Thấy vậy, L dùng tay trái kéo chân của T mở ra nhưng không được nên L đã dùng tay phải đánh vào mặt chị T hai cái, tiếp tục L dùng tay trái sờ vào âm đạo của T. Sau đó, T van xin L tha cho mình và T nói với L là “để em dùng tay cho anh ra, anh đừng quan hệ em” nhưng L không đồng ý. Nguyễn Tấn L tiếp tục dùng tay trái cầm dương vật đưa vào trong âm đạo của T nhưng T vẫn dãy dụa chống cự. Do vậy, Nguyễn Tấn L đã không đưa được dương vật vào bên trong mà chỉ cọ sát ở bên ngoài âm đạo của T. T tiếp tục van xin để mình dùng tay kích thích dương vật cho L. Một lúc sau, thấy không đưa dương vật được vào âm đạo của T nên Nguyễn Tấn L nói T dùng tay để kích thích dương vật cho mình. Nói xong, Nguyễn Tấn L đứng dậy và bắt T trong tư thế ngồi quỳ bên dưới để dùng tay kích thích dương vật cho L, lúc này Nguyễn Tấn L có đưa dương vật vào trong miệng của T. Một lúc sau đó thì Nguyễn Tấn L đã xuất tinh dịch ra và tinh dịch của L có dính ở ngực, bụng của Vũ Thị Thu T. Sau đó, chị T đã nhặt quần áo mặc vào lại nên tinh dịch ở người chị T đã dính vào chiếc áo. Mặc quần áo xong thì T đi theo đường đất ra ngoài. Lúc này, L cũng mặc quần áo rồi lấy xe điều khiển xe đi lại chỗ T, T có quay lại nhìn biển số xe của Nguyễn Tấn L và L nói T lên xe để mình chở về. Do không biết đường đi và thấy L đã thực hiện xong hành vi hiếp dâm đối với mình nên T đồng ý ngồi lên xe để L chở về. Nguyễn Tấn L chở chị Vũ Thị Thu T về lại đường Nguyễn Tri Phương rồi chị T xuống xe đi bộ, còn L điều khiển xe đi về nhà. T sau khi xuống xe thì đi bộ vào nhà một người dân rồi gọi điện thoại cho người quen đến, sau đó trình báo sự việc cho Cơ quan Công an. Khi L đang nằm ở nhà của mình thì bị cơ quan Công an mời về làm việc.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 41 ngày 08/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận Nguyễn Tấn L: Bộ phận sinh dục của Nguyễn Tấn L không có dấu vết tổn thương và không có cơ sở xác định trên bộ phận sinh dục của Nguyễn Tấn L có tinh trùng, tinh dịch.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 40 ngày 08/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận Vũ Thị Thu T như sau:
+ Vùng âm hộ, tầng sinh môn của Vũ Thị Thu T dính nhiều cát phía ngoài, môi lớn bên trái về phía tiền đình có vết rách mới kích thước 2 x 0,3 cm, đang rỉ máu. Bên trong môi bé bên phải có 01 vết rách kích thước 1 x 1 cm.
+ Màng trinh giãn, có các vết rách tới chân màng trinh ở vị trí 03 giờ, 09 giờ; rách chưa tới chân màng trinh ở vị trí 01 giờ. Tất cả các vết rách đã cũ.
+ Cánh mũi bên trái có vết xước da nông kích thước 1 x 0,1 cm.
+ Dập niêm mạc môi dưới bên phải và trái.
+ Có tinh trùng trong bộ phận sinh dục của Vũ Thị Thu T.
+ Vũ Thị Thu T không có thai tại thời điểm khám giám định.
- Tại Bản kết luận giám định gen (AND) số 4386/KL-KTHS ngày 23/9/2022 của Viện khoa học hình sự tại Thành phố H kết luận: Các mẫu gửi giám định là lông và tóc người. Không phân tích được hồ sơ AND hoàn chỉnh từ mẫu lông, tóc này nên không truy nguyên được cá thể.
- Tại Bản kết luận giám định gen (AND) số 4387/KL-KTHS ngày 23/9/2022 của Viện khoa học hình sự tại Thành phố H kết luận: Trên chiếc áo màu trắng tạm giữ của Vũ Thị Thu T có dính tinh trùng. Phân tích ADN từ dấu vết tinh trùng này được một kiểu gen nam giới hoàn chỉnh, trùng với kiểu gen của Nguyễn Tấn L; Không phân tích được ADN hoàn chỉnh từ mẫu tiêu bản nên không truy nguyên được cá thể.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 154/2022/TgT ngày 22/8/2022 của trung tâm pháp y tỉnh B kết luận:
+ Trầy xước da cánh mũi trái đã được điều trị, hiện để lại vết thâm mờ kích thước: 1 x 0,2 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 1,5%.
+ Trầy xước da 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái, hiện để lại sẹo lành kích thước: 1 x 0,6 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 2%.
+ Trầy xước da mặt trong môi bé bên phải đã được điều trị, hiện để lại sẹo lành kích thước: 1 x 1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 2%.
+ Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Vũ Thị Thu T hiện tại là 5% (Năm phần trăm).
+ Các vết trầy xước da do vật tày gây ra.
Các vết trầy xước da cánh mũi trái, mặt trong môi bé bên phải có chiều hướng lực tác động từ trước ra sau; trầy xước da cẳng tay trái có chiều hướng lực tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.
* Về vật chứng vụ án:
- Thu giữ của bị cáo Nguyễn Tấn L: 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 86B9-xxxxx, màu đỏ, đen; 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh đen, bên trong mũ bảo hiểm có số tiền 400.000 đồng (gồm hai tờ mệnh giá 200.000 đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F11; 01 (một) quần đùi màu xanh đen và 01 (một) áo thun ngắn tay màu hồng nhạt;
- Vũ Thị Thu T giao nộp 01 (một) áo len màu trắng;
- Thu giữ tại hiện trường: 01 (một) khẩu trang màu đen; 02 (hai) chiếc dép màu đen; 05 (năm) sợi lông, tóc màu đen và 05 (năm) sợi lông, tóc màu trắng;
- Thu các mẫu để phục vụ công tác giám định gồm: 30 (ba mươi) sợi tóc có gốc của Nguyễn Tấn L, 15 (mười lăm) sợi tóc có gốc của Vũ Thị Thu T và chất dịch trong âm đạo của Vũ Thị Thu T (tiêu bản).
Số vật chứng nêu trên và tiêu bản còn lại sau giám định, hiện đã chuyển sang kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự theo biên bản giao nhận giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự.
Riêng số tiền 400.000 đồng Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển vào tài khoản Chi cục Thi hành án dân sự vào ngày 07/10/2022.
Đối với các sợi lông, tóc thu giữ tại hiện trường và thu của Nguyễn Tấn L, Vũ Thị Thu T trong quá trình giám định đã được phân tích hết.
* Về trách nhiệm dân sự: Chị Vũ Thị Thu T yêu cầu bị cáo Nguyễn Tấn L bồi thường số tiền 93.501.605 đồng (Trong đó có số tiền 1.000.000 đồng mà chị T cho rằng L đã chiếm đoạt ngay sau khi thực hiện hành vi giao cấu xong).
Bị cáo Nguyễn Tấn L cùng đại diện gia đình đã bồi thường cho chị T với tổng số tiền 92.501.605 đồng còn lại số tiền 1.000.000 đồng bị can L không đồng ý bồi thường vì số tiền này bị can không có chiếm đoạt của chị T.
Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSPQ-HS ngày 31/10/2022 cũng như trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 01, Điều 141, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tháng tù.
Về xứ lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) mũ bảo hiểm màu xanh đen, 01 (Một) quần đùi màu xanh đen, 01 (Một) áo thun ngắn tay màu hồng nhạt, 01 (Một) khẩu trang màu đen, 01 tiêu bản còn lại sau giám định được niêm phong trong hộp giấy.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn L: 01 (Một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 86B9-xxxxx, màu đỏ, đen, số tiền 400.000 đồng, 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO F11.
Trả lại cho bị hại T: 01 (Một) áo len màu trắng, 02 (Hai) chiếc dép màu đen.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của phạm tội của mình là trái pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo cho rằng bị cáo đã thành khẩn khai báo và lúc bị hại chống cự không cho bị cáo quan hệ tình dục nên đã dùng tay tát nhẹ bị hại để thực hiện hành vi hiếp dâm, bị cáo không chiếm đoạt số tiền 1.000.000 đồng của bị hại.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất với tội danh của VKS về tội hiếp dâm. Tuy nhiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng bị cáo không thành khẩn khai báo, xem thường pháp luật nên việc đề nghị mức hình phạt của Viện kiểm sát đối với bị cáo là quá nhẹ không tương xứng với mức độ hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo còn có hành vi gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ 5 %, có hành vi chiếm đoạt của bị hại 1.000.000 đồng nên đề nghị HĐXX xem xét trả hồ sơ để điều tra làm rõ hành vi cố ý gây thương tích và cướp tài sản của bị cáo.
Đại diện VKS huyện P vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo. Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản thì ngoài lời khai của bị hại và không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên chưa đủ cơ sở để xử lý bị cáo về các hành vi nêu trên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không có ý kiến gì về hành vi và quyết định tố tụng nêu trên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng nêu trên là đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, người làm chứng và bị hại vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt), căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng tiến hành xét xử theo quy định.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét, việc thừa nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu, lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như đã được thẩm tra tại phiên tòa nên đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 31/7/2022, bị cáo Nguyễn Tấn L đã có hành vi dùng vũ lực nhằm mục đích giao cấu trái ý muốn của bị hại Vũ Thị Thu T và gây nên tổn thương cơ thể với tỷ lệ là 5%. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Hiếp dâm” quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh nêu trên hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng bị cáo có hành vi chiếm đoạt tài sản và gây thương tích cho bị hại nên đề nghị trả hồ sơ để xử lý bị cáo L về hành vi chiếm đoạt tài sản và cố ý gây thương tích, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn L không thừa nhận có hành vi chiếm đoạt 1.000.000 đồng của bị hại, ngoài lời khai của bị hại không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh bị cáo có hành vi chiếm đoạt tài sản. Đối với thương tích 5% của bị hại là do trong quá trình thực hiện hành vi hiếp dâm, bị hại đã chống cự và bị cáo đã dùng vũ lực với mục đích để thực hiện hành vi hiếp dâm nên đã gây tổn hại về sức khỏe cho bị hại chứ bị cáo không có mục đích gây thương tích. Do đó, ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại chưa có cơ sở nên không được chấp nhận.
[3] Xét tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi xâm phạm đến sức khỏe, nhâm phẩm của người khác là trái pháp luật. Nhưng vì muốn thỏa mãn dục vọng của bản thân mà cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm, xem thường pháp luật, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Trước đây, bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm đối với người khác nhưng không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 1.000.000 đồng mà bị hại cho rằng bị cáo đã chiếm đoạt, HĐXX xét thấy ngoài lời khai của bị hại, không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh được bị cáo đã chiếm đoạt nên không có cơ sở chấp nhận.
[6] Về biện pháp tư pháp:
Đối với 01 (Một) quần đùi màu xanh đen; 01 (Một) áo thun ngắn tay màu hồng nhạt; 01 (Một) khẩu trang màu đen; 01 tiêu bản còn lại sau giám định được niêm phong trong hộp giấy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 (Một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 86B9-xxxxx, màu đỏ đen; 01 (Một) mũ bảo hiểm màu xanh đen, 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO F11 và số tiền 400.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 (Một) áo len màu trắng; 02 (Hai) chiếc dép màu đen của bị hại nên trả lại cho bị hại;
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 141; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Hiếp dâm”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn L 2 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 8 năm 2022.
2.Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) quần đùi màu xanh đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu hồng nhạt; 01 (một) khẩu trang màu đen; 01 tiêu bản còn lại sau giám định được niêm phong trong hộp giấy.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn L: 01 (Một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 86B9-xxxxx, màu đỏ, đen; 01 (Một) mũ bảo hiểm màu xanh đen, 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO F11.
Trả lại cho bị hại Vũ Thị Thu T: 01 (Một) áo len màu trắng; 02 (Hai) chiếc dép màu đen;
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh bình Thuận).
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn L số tiền 400.000 đồng (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh B ngày 07/10/2022).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Tấn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/11/2022). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội hiếp dâm số 27/2022/HS-ST
Số hiệu: | 27/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Quí - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về