TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 144/2022/HS-ST NGÀY 08/12/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 08 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 130/2022/TLST-HS ngày 19/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2022/QĐXXST-HS ngày 11/11/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2022/HSST-QĐ ngày 25/11/2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Đức T, sinh năm 1995 tại Nam Định; nơi ĐKHKTT: Ngõ 3/7/21 phố T, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; chỗ ở: Tổ 8, phường M, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 12/7/2022, chuyển tạm giam từ ngày 21/7/2022 đến nay; có mặt.
Bị hại: Chị Lê Thị N, sinh năm 1999; địa chỉ cư trú: Tổ dân phố B, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Nguyễn Thiên T, sinh năm 1987; địa chỉ cư trú: Tổ 8, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: Tổ 8, phường M, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có mặt.
Người làm chứng:
- Anh Phạm Văn H, sinh năm 1999; vắng mặt.
- Anh Nguyễn Minh Q, sinh năm 1999; vắng mặt.
- Anh Trương Hoàng L, sinh năm 1998; vắng mặt.
- Chị Quách Thị Kim Y, sinh năm 2000; vắng mặt.
- Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1998; vắng mặt.
- Anh Hoàng Việt A, sinh năm 1990; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 10/7/2022, Nguyễn Đức T đang ở nhà thì anh Phạm Văn H gọi điện thoại đến rủ ra quán “Nhắng” ở đầu cầu Châu Giang thuộc phường L, thành phố P. Khoảng 15 phút sau, T một mình điều khiển xe mô tô BKS: 18B2- 276… đi từ chỗ ở ra quán “Nhắng” thì gặp H, Lê Thị N, Nguyễn Minh Q, Trương Hoàng L, Quách Thị Kim Y, Nguyễn Minh T đang uống rượu thì T vào ngồi cùng mọi người. Đến khoảng 00 giờ ngày 11/7/2022, T rủ mọi người đi hát tại quán Karaoke T ở đường Lê Duẩn thuộc tổ 8, phường T, thành phố P do anh Nguyễn Thiên T làm chủ. T nhắn tin Facebook cho anh Hoàng Việt A, (quản lý quán) đặt phòng hát. Sau khi đến quán, mọi người được nhân viên hướng dẫn lên phòng hát số 502 tầng 5 rồi cùng nhau hát karaoke, uống bia. Do say rượu nên anh H, T, chị N lần lượt nằm trên ghế ngủ, còn những người khác tiếp tục hát karaoke và uống bia sau đó đi về trước. Trong phòng 502 lúc này chỉ còn T, anh H và chị N nằm ngủ. Khoảng gần 02 giờ ngày 11/7/2022, T tỉnh dậy, nhìn trong phòng thấy còn anh H và chị N đang nằm trên ghế ngủ. T đến chỗ anh H và chị N lay người gọi dậy để đi về nhưng chị N và anh H không dậy. T ngồi bên cạnh chị N, thấy chị N đang nằm ngủ trong tư thế nằm ngửa trên ghế, hai chân mở rộng sang hai bên, T biết chị N đang say rượu, không tỉnh táo nên nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị N. T ngồi sát lại vị trí chị N đang nằm, dùng tay phải vạch đũng quần đùi và quần lót (có dán băng vệ sinh ở mặt trong) của chị N đang mặc sang bên phải để lộ âm hộ ra ngoài. T dùng tay phải sờ âm hộ của chị N khoảng 01 phút để kích thích dương vật của mình, khi dương vật đã cương cứng, T tự tụt quần đùi và quần lót đang mặc của mình xuống đến đầu gối, tay phải cầm dương vật ấn vào âm đạo của chị N và thực hiện động tác đưa dương vật ra vào âm đạo nhiều lần, đồng thời tay trái T luồn vào cổ áo của chị N để sờ, bóp ngực. T thực hiện hành vi giao cấu với chị N khoảng 2, 3 phút thì chị N tỉnh ngủ, thấy T đang quan hệ tình dục với mình thì chị N nhổm người ngồi dậy đẩy T ra và quay sang nhìn thấy anh H đang nằm ngủ thì gọi “H ơi” mấy lần nhưng không thấy anh H trả lời. Lúc này, T dùng tay phải đè vào bả vai ghì chị N nằm xuống ghế rồi tiếp tục quan hệ tình dục với chị N. Chị N cắn vào bắp tay phải của T hai phát, T dùng tay phải tát một cái vào cằm chị N rồi tiếp tục quan hệ tình dục với chị N. Chị N nhổm được người dậy và chửi T, dùng tay đẩy vào người, dùng chân đạp vào đùi T làm T bị mất đà lùi về phía sau, dương vật của T bị tuột khỏi âm đạo chị N. Chị N đứng dậy chỉnh lại quần áo rồi đi xuống quầy lễ tân bằng thang máy, T đi bằng cầu thang bộ xuống theo sau. Khi xuống tầng 1 thì T nhờ lễ tân gọi xe taxi đi về trước, chị N ngồi lại tại quầy lễ tân. Lúc này, nhân viên quán Karaoke lên phòng 502 gọi anh H dậy rồi anh H cùng chị N đi về.
Ngày 11/7/2022 chị Lê Thị N có đơn đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật. Ngày 17/7/2022, chị N có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đề nghị xử lý hành vi hiếp dâm của T theo quy định của pháp luật.
* Vật chứng, đồ vật thu giữ gồm:
- Thu của chị Lê Thị N: 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu kẻ hồng; 01 quần đùi giả váy màu hồng, 01 quần lót nữ màu đen, 01 áo ngực màu đen, 01 băng vệ sinh phụ nữ đã qua sử dụng.
- Thu của Nguyễn Đức T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, 01 áo phông không cổ màu đen, 01 quần đùi màu đen, 01 quần lót nam đã qua sử dụng.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 22/22/TD ngày 15/7/2022 của T tâm pháp y tỉnh Hà Nam, kết luận đối với chị Lê Thị N:
“- Sây sát da khuỷu tay trái;
- Bộ phận sinh dục của Lê Thị N không rách da, bầm tụ máu do ngoại lực;
- Màng trinh rách cũ ở vị trí 4 giờ và 8 giờ;
- Không thấy hình ảnh tinh trùng trên phiến đồ âm đạo”.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 23/22/TD ngày 15/7/2022 của T tâm Pháp y tỉnh Hà Nam, kết luận đối với Nguyễn Đức T:
“- 02 vết sây sát da hình elip cánh tay phải;
- Bộ phận sinh dục của Nguyễn Đức T không sây sát, rách da, bầm tụ máu do ngoại lực;
- Năng lực tình dục bình thường”.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 321/22/TC-ADN ngày 21/7/2022 của Viện Pháp y Quốc gia, kết luận:
“- Thử định tính phát hiện nhanh vết tinh dịch người trên mẫu gửi giám định ký hiệu M2 (chiếc quần lót nữ, chiếc băng vệ sinh phụ nữ), M5 (chiếc quần đùi màu đen, chiếc quần lót nam): Dương tính.
- Thử định tính phát hiện nhanh vết tinh dịch người trên mẫu gửi giám định ký hiệu M, M2 (chiếc áo sơ mi kẻ, chiếc quần đùi giả váy màu hồng, chiếc áo lót nữ), M5 (chiếc áo phông màu đen): Âm tính.
- ADN của nam giới thu từ mẫu gửi giám định ký hiệu M2 (chiếc quần lót nữ, chiếc băng vệ sinh phụ nữ) có các alen không trùng với các alen của Nguyễn Đức T trên các locus Y-STR đã so sánh.
- Không thu được dữ liệu ADN của nam giới từ mẫu gửi giám định ký hiệu M, M2 (chiếc áo sơ mi kẻ, chiếc quần đùi giả váy màu hồng) trên các locus STR đã phân tích.
- Không thu được ADN của nữ giới từ mẫu gửi giám định ký hiệu M5 (chiếc quần lót nam) trên các locus STR đã phân tích.
- ADN thu từ mẫu gửi giám định ký hiệu M2 (chiếc áo lót nữ), M5 (chiếc áo phông màu đen, chiếc quần đùi màu đen) là ADN trộn lẫn của nhiều người và không thể tách rời ADN của từng người riêng biệt nên không thể so sánh với ADN của Lê Thị N và Nguyễn Đức T”.
Tại bản Cáo trạng số 137/CT-VKS-PL ngày 19/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Đức T về tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Đức T theo nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX):
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Hiếp dâm”.
Áp dụng khoản 1 Điều 141, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Đức T từ 27 đến 33 tháng tù.
+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Trả lại cho bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của bị cáo) số tiền 10.000.000 đồng.
+ Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 băng vệ sinh phụ nữ đã qua sử dụng. Trả lại bị cáo Nguyễn Đức T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng;
01 áo phông không cổ màu đen; 01 quần đùi màu đen; 01 quần lót nam. Trả lại cho chị Lê Thị N 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu kẻ hồng; 01 quần đùi giả váy màu hồng; 01 quần lót nữ màu đen; 01 áo ngực màu đen.
+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo từ chối, không yêu cầu Luật sư Chu Thành N bào chữa cho bị cáo nữa. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Bị hại chị Lê Thị N vắng mặt tại phiên tòa, song tại đơn đề nghị đề ngày 04/11/2022 chị N xin giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình điều tra; chị N không yêu cầu bị cáo T bồi thường cho chị về phần dân sự.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị C trình bày: Bà là mẹ đẻ của bị cáo Nguyễn Đức T. Trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án bà đã có yêu cầu nhờ luật sư Chu Thành N là người bào chữa cho bị cáo T, nhưng tại phiên tòa bà từ chối, không yêu cầu Luật sư Chu Thành N bào chữa cho bị cáo nữa. Trong thời gian bị cáo bị tạm giam thì bị cáo có nhắn về cho bà và nhờ bà bồi thường cho chị Lê Thị N. Ngày 14/11/2022, bà đã tự nguyện nộp thay bị cáo số tiền 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý để bồi thường về phần dân sự cho chị N. Bà đề nghị HĐXX giải quyết số tiền trên theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Thiên T và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
Đối với người bào chữa cho bị cáo: Ngày 16/11/2022 mẹ đẻ của bị cáo là bà Nguyễn Thị C có yêu cầu nhờ Luật sư Chu Thành N thuộc Công ty Luật TNHH Thế kỷ XXI là người bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; tại biên bản làm việc ngày 16/11/2022, bị cáo Nguyễn Đức T cũng nhất trí yêu cầu Luật sư Chu Thành N là người bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, cả bà C và bị cáo T đều từ chối, không yêu cầu Luật sư Chu Thành N bào chữa cho bị cáo nữa mà bị cáo tự bào chữa cho mình. Xét thấy việc yêu cầu Luật sư bào chữa là quyền của bị cáo và người thân của bị cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bà C và bị cáo tự nguyện từ chối nhờ Luật sư bào chữa nên HĐXX chấp nhận ý kiến của bị cáo và bà C.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, các Bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 11/7/2022, tại phòng 502 tầng 5 của quán karaoke T thuộc tổ 8, phường T, thành phố P. Nguyễn Đức T đã lợi dụng lúc chị Lê Thị N say rượu nằm ngủ, không có khả năng phản kháng, không thể tự vệ được đã giao cấu với chị N; khi chị N tỉnh dậy, chống cự thì T đã dùng vũ lực để tiếp tục thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái với ý muốn của chị N. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội“Hiếp dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với Nguyễn Đức T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[5] Về hình phạt:
- Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến thân thể, danh dự, nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây tâm lý hoang mang, bất bình trong nhân dân. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
- Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại đơn đề nghị đề ngày 04/11/2022, bị hại chị Lê Thị N tự nguyện không yêu cầu bị cáo Nguyễn Đức T bồi thường về phần dân sự nên HĐXX không đặt ra xem xét.
Ngày 14/11/2022 bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của bị cáo) đã tự nguyện nộp thay bị cáo Nguyễn Đức T số tiền 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để bồi thường cho bị hại Lê Thị N. Xét thấy bị hại chị Lê Thị N không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường về phần dân sự cho chị, do đó cần trả lại số tiền trên cho bà C là phù hợp với quy định cảu pháp luật.
[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:
- Đối với 01 băng vệ sinh phụ nữ đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu kẻ hồng, 01 quần đùi giả váy màu hồng, 01 quần lót nữ màu đen, 01 áo ngực màu đen là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị N nên cần trả lại cho chị N.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng; 01 áo phông không cổ màu đen, 01 quần đùi màu đen, 01 quần lót nam là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đức T, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.
[8] Về tình tiết khác của vụ án:
- Đối với thương tích khuỷu tay trái do Lê Thị N tự trượt ngã trước đó. Ngoài ra, chị N bị Nguyễn Đức T tát song không gây thương tích, chị N không có yêu cầu, đề nghị gì nên không xem xét.
- Đối với anh Nguyễn Thiên T là chủ quán karaoke T có hành vi cho khách hát Karaoke không đúng thời gian quy định, đã vi phạm vào điểm b khoản 5 Điều 15 Nghị định 38/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo. Ngày 22/7/2022, Chủ tịch UBND thành phố Phủ Lý đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Nguyễn Thiên T, phạt số tiền 12.500.000 đồng, buộc anh Nguyễn Thiên T phải nộp lại số tiền 750.000 đồng là số tiền thu lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi vi phạm hành chính nêu trên.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 141, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 106, 135,136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Hiếp dâm”.
2/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 27 (hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 12 tháng 7 năm 2022).
3/ Về trách nhiệm dân sự: Trả lại cho bà Nguyễn Thị C số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) mà bà C đã tạm nộp thay bị cáo Nguyễn Đức T tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý theo biên lai số AA/2021/0000418 ngày 14/11/2022.
4/ Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 băng vệ sinh phụ nữ đã qua sử dụng.
- Trả lại bị cáo Nguyễn Đức T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, số IMEI 359474081158846; 01 áo phông không cổ màu đen, 01 quần đùi màu đen, 01 quần lót nam (đều đã qua sử dụng).
- Trả lại cho chị Lê Thị N: 01 áo sơ mi kẻ màu kẻ hồng, 01 quần đùi giả váy màu hồng, 01 quần lót nữ, 01 áo ngực nữ (đều đã qua sử dụng).
(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý lập ngày 20/10/2022).
5/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai, Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị C có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Thiên Tân vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội hiếp dâm số 144/2022/HS-ST
Số hiệu: | 144/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về