Bản án về tội hiếp dâm số 14/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 14/2021/HSPT NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang tiến xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 111/2021/HSPT ngày 01 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo: Nguyễn Trọng N Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 69/2021/HSST ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Trọng N, sinh năm 1996 tại Kiên Giang; Nơi ĐKTT: Ấp Vĩnh Lập, xã Hòa Chánh, U Minh Thượng, Kiên Giang; Chỗ ở: Ấp SL, xã DT, thành phố PQ, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: kinh doanh tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Mười và bà Trần Thị Đen; Tiền sự, tiền án: không. Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 10/2020, Nguyễn Trọng N và chị Phạm Thị T L nảy sinh quan hệ tình cảm và yêu nhau, đến tháng 11/2020 thì cả hai chia tay. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/12/2020, N đến gặp chị L trước nhà nghỉ Bưu Điện thuộc khu phố 2, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc (nay là thành phố Phú Quốc), tỉnh Kiên Giang để nói chuyện. Đến khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày chị L đi lên phòng số 201 của nhà nghỉ để nghỉ ngơi, Ngđi theo sau chị L lên phòng. Khi lên phòng, N muốn quan hệ tình dục với chị L nhưng chị L không đồng ý, N đẩy chị L nằm ngửa xuống giường, N tự cởi áo đang mặc rồi nằm đè lên người chị L, N tiếp tục tự cởi quần của N rồi cởi quần của chị L, chị L không đồng ý quan hệ nên dùng tay, chân đẩy N ra, đồng thời la hét kêu N buông ra nhưng N không buông mà thực hiện hành vi giao cấu với chị L được khoảng 03 phút thì nghỉ. Đến ngày 24/12/2021, chị L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc (nay là thành phố Phú Quốc) tố giác N hiếp dâm. Ngày 26/01/2021, Nguyễn Trọng N bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phú Quốc khởi tố bị can để điều tra.

* Thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, loại Redmi màu xanh, model: M1901F7G, đã qua sử dụng;

- 01 cái mền bằng vải màu trắng – xanh – tím, kích thước (196x168)cm, hoa văn hình bông hoa và kẻ sọc ca rô, có dính vệt chất màu nâu đỏ;

- 01 cái mền bằng vải có hoa văn màu trắng – xanh đậm nhạt xen kẻ nhau, kích thước (176x146)cm, có dính vệt chất màu nâu đỏ;

- 01 áo gối nằm bằng vải màu trắng, kích thước (70x40)cm, có dính vệt chất màu nâu đỏ.

* Tại bản Kết luận giám định pháp y về tình dục số 683/TD ngày 05/01/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Kiên Giang đối với Phạm Thị Thúy L kết luận như sau:

- Màng trinh có vết rách cũ ở vị trí 6 giờ. Màng trinh và âm đạo dãn rộng. Chứng tỏ đã có vật có đường kính từ 2,5cm trở lên đưa qua lỗ màng trinh vào âm đạo nhiều lần.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 69/2021/HSST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 141, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng N phạm tội “Hiếp dâm” Xử phạt: Nguyễn Trọng N 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự (buộc bị cáo N phải bồi thường tổn thất tinh thần cho bị hại 20.000.000đ), biện pháp tư pháp, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 11/6/2021 bị cáo Nguyễn Trọng N có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Trọng N giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang giữ quyền công tố tại phiên tòa có ý kiến: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo N về tội “Hiếp dâm” theo quy định khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự phạt bị cáo 02 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tự nguyện nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc 20.200.000đ để bồi thường cho bị hại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng mà ở cấp sơ thẩm chưa được áp dụng, nên kháng cáo của bị cáo có căn cứ để chấp nhận. Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo; áp dụng khoản 1 Điều 141; điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo N từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Xét đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trọng Nghĩa về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm: Nguyễn Trọng N và chị Phạm Thị Thúy L có quan hệ tình cảm nhưng sau đó chia tay. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/12/2020, sau khi N đến gặp chị L trước nhà nghỉ Bưu Điện thành phố Phú Quốc để nói chuyện thì chị L đi lên phòng số 201 nghỉ ngơi, N đi theo sau chị L lên phòng. N muốn quan hệ tình dục với chị L nhưng chị L không đồng ý, N đẩy chị L nằm ngửa xuống giường, N tự cởi áo đang mặc rồi nằm đè lên người chị L, N tiếp tục tự cởi quần của N rồi cởi quần của chị L, chị L không đồng ý quan hệ nên dùng tay, chân đẩy N ra, đồng thời la hét kêu N buông ra nhưng N không buông mà thực hiện hành vi giao cấu với chị L được khoảng 03 phút thì nghỉ. Với hành vi dùng vũ lực nhầm ép nạn nhân quan hệ tình dục với mình trái với ý muốn của họ như trên của bị cáo Nguyễn Trọng N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm”. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Hiếp dâm” theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Trọng N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần người bị hại, tác động xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng, xử phạt bị cáo 02 năm tù là tương xứng. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc để bồi thường cho người bị hại số tiền mà cấp sơ thẩm tuyên buộc là 20.000.000đ theo các biên lại thu tiền số 08575 ngày 07/6/2021 và số 08579 ngày 15/6/2021. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự mà khi xét xử sơ thẩm bị cáo chưa được hưởng, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ này khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo. Từ đó, xét thấy có cơ sở để chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Việc sửa án sơ thẩm do bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới (tự nguyện bồi thường thiệt hại sau khi cấp sơ thẩm đã xét xử), chứ cấp sơ thẩm không có lỗi.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trọng N - Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 69/2021/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 141; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N 01 (một) năm tù, về tội hiếp dâm. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo Nguyễn Trọng N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2021/HS-ST ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm số 14/2021/HSPT

Số hiệu:14/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về