TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Côn Đảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Chí Th, sinh ngày 22/03/2005 tại Kiên G. Hộ khẩu thường trú: Khu A, phường B, thành phố C, tỉnh Kiên G. Chổ ở hiện nay: Khu 1, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Đi biển; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B và bà Trần Thị C; vợ và con: Chưa có; gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 18/5/2022 cho đến ngày xét xử “có mặt”.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:
1. Ông Phạm Văn B, sinh năm 1977. Địa chỉ: Khu A, phường B, thành phố C, tỉnh Kiên G (vắng mặt).
2. Bà Trần Thị C, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu 1, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Văn H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Bị hại: Chị Khương Thị Trúc G, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Khu 3, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Văn B, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Khu A, phường B, thành phố C, tỉnh Kiên G (vắng mặt);
2. Bà Trần Thị C, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Khu 1, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người làm chứng:
1. Bà Trương Thị Th, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Khu 1, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
2. Ông Huỳnh Quốc Th, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Khu 4, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 30/04/2022, Phạm Chí Th ngồi nhậu cùng với một số người bạn tại vỉa hè hồ Quang Trung. Đến khoảng 04 giờ ngày 01/05/2022, Th điều khiển xe mô tô biển số 68P1- X hiệu Honda Vision về phòng trọ tại khu dân cư số 9, huyện Côn Đảo. Do trước đó Th có đến nhậu tại quán Làng Nướng ở đường Vũ Văn Hiếu, khu dân cư số 5, huyện Côn Đảo và biết chị Khương Thị Trúc G ngủ lại một mình nên Th nảy sinh ý định hiếp dâm chị G. Khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày, Th điều khiển xe mô tô trên từ phòng trọ đến quán Làng Nướng. Khi cách quán khoảng 19 mét, Th dừng xe rồi đi bộ vào trong quán. Th đến cửa phòng ngủ của chị G, nắm tay cầm giật, đẩy để mở cửa nhưng không mở được. Lúc này, chị G tỉnh dậy và hỏi “Ai vậy?”, Th nói “Mở cửa” nhưng chị G không trả lời, cũng không mở cửa. Th đi vào bếp lấy 01 (một) con dao dài 30 cm (lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 18 cm, mũi dao sắc nhọn, cán dao dài 12 cm bằng nhựa màu đen) đi đến phòng chị G dùng dao cạy góc trên bên trái cánh cửa rồi dùng tay giật rơi miếng cửa xuống đất, Th trèo qua lỗ cửa bị phá vào phòng ngủ của chị G. Khi vào phòng, Th thấy chị G đứng dưới sàn nhà nên lao vào đẩy chị G nằm ngã ngửa lên giường và nằm đè lên người chị G, tay trái Th giữ hai tay chị G vòng qua đầu đè xuống giường. Chị G la hét, dùng tay cào cấu lên người Th và đạp Th ra nhưng không được. Thấy chị G chống cự quyết liệt, Th dùng tay bóp cổ và cầm dao đe dọa nếu còn la hét, chống cự sẽ giết chị G. Sau đó, Th để dao sang một bên, dùng tay giật đứt váy ngủ chị G đang mặc (chị G không mặc đồ lót bên trong) rồi hôn lên miệng, cổ và người chị G, dùng tay sờ ngực và bộ phận sinh dục của chị G. Đến khoảng 04 giờ 45 phút cùng ngày, Th cởi quần áo đang mặc trên người để quan hệ tình dục với chị G thì chị Trương Thị Thủy chạy xe qua quán nghe kêu cứu nên đi vào thì phát hiện Th đang đè chị G trên giường để hiếp dâm. Chị Th chạy ra đường tri hô. Lúc này, Th ôm quần áo leo qua cửa bỏ chạy ra cửa sau vào rừng cây. Khi chạy đến ngã ba đường Vũ Văn Hiếu - Trần Phú, Th phát hiện bị rơi điện thoại nên mặc quần, để áo sơ mi màu đen trên vỉa hè rồi đi bộ quay lại quán Làng Nướng để lấy điện thoại. Lúc này chị G đang đứng nói chuyện với anh Huỳnh Quốc Th và chị Thủy. Khi thấy Th, chị G chỉ và nói Th chính là người vừa hiếp dâm nên anh Th cùng chị Th khống chế bắt giữ và áp giải Th lên Công an huyện Côn Đảo.
Vật chứng thu giữ tại hiện trường gồm: 01 (một) đôi dép màu xanh đỏ, loại dép xỏ ngón, có in chữ ALANCA; 01 (một) mảnh cửa ra vào bằng tấm xi măng, kích thước:
dài 90 cm, rộng 35 cm; 01 (một) áo ngủ, màu nâu đỏ, đã qua sử dụng, bị đứt dây áo; 01 (một) con dao dài 30 cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 18 cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 12 cm; 01 (một) áo sơ mi, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) phần gương vỡ, kích thước: dài 31 cm, rộng 17 cm; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 68P1 – X, màu đen xám, số khung: 5836KY044295, số máy: JF86E2108738 (BL: 30-33, 34-50).
Kết quả xem xét dấu vết trên thân thể Phạm Chí Th:
- Một vết bầm tím trên vai trái, kích thước 04cm x 01cm; một vết bầm tím trên ngực trái, kích thước 10cm x 03cm do Th chui ra, chui vào bị cọ sát vào cánh cửa gây ra.
- Một vùng trầy xước trên cổ, kích thước 03cm x 02cm; một vết bầm tím ở cổ, kích thước 3,5cm x 0,5cm do trong lúc vật lộn, chị G dùng tay cào cấu gây ra.
- Một vết trầy xước da tại chân trái, kích thước 03cm x 0,2cm; một vết trầy xước da tại mu bàn chân phải, kích thước 0,5cm x 0,5 cm lúc Th vật lộn khi bị bắt (BL: 52-58).
Về xử lý vật chứng vụ án:
- Đôi dép màu xanh đỏ, loại dép xỏ ngón, có in chữ ALANCA; 01 (một) áo sơ mi màu đen Phạm Chí Th sử dụng trước và trong khi thực hiện hành vi hiếp dâm; 01 (một) áo ngủ màu nâu đỏ của Khương Thị Trúc G; 01 (một) phần gương vỡ, kích thước: dài 31 cm, rộng 17 cm; 01 (một) mảnh cửa ra vào bằng tấm xi măng, kích thước: dài 90 cm, rộng 35 cm; 01 (một) con dao dài 30 cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 18 cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 12 cm Th dùng để phá cửa và đe dọa chị Khương Thị Trúc G được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo bảo quản, chờ xử lý theo quy định.
- Xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 68P1 - X, màu đen xám, số khung: 5836KY044295, số máy: JF86E2108738 do bà Trần Thị C - mẹ ruột của Th mua vào tháng 5/2019 làm phương tiện đi lại. Bà C không biết Phạm Chí Th sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên ngày 15/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho bà Trần Thị C (BL: 17, 101).
Về trách nhiệm dân sự:
Chị Khương Thị Trúc G yêu cầu Phạm Chí Th bồi thường số tiền sụt giảm doanh thu, thuê nhân viên: 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng); tiền thiệt hại tổn thất về danh dự, nhân phẩm số tiền là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
Ngày 20/7/2022, bà Trần Thị C (mẹ của bị cáo) đã nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để khắc phục hậu quả do bị cáo gây ra (BL: 103).
Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSCĐ ngày 19/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo truy tố bị cáo Phạm Chí Th về tội: “Hiếp dâm” quy định tại khoản 1 Điều 141 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố: Phạm Chí Th phạm tội “Hiếp dâm”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 141 của Bộ luật Hình sự; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự; xử phạt Phạm Chí Th từ 17 (mười bảy) tháng đến 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Hiếp dâm”.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) đôi dép, màu: xanh đỏ, loại dép xỏ ngón, hiệu ALANCA; 01 (một) áo ngủ, màu nâu đỏ, đã qua sử dụng; 01 (một) con dao dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại màu: trắng dài 18cm, cán dao bằng nhựa màu: đen dài12cm; 01 (một) áo sơ mi, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) phần gương vỡ, kích thước: dài 31 cm, rộng 17 cm; 01 (một) phần cửa ra vào bằng tấm xi măng bo, kích thước: dài 90 cm, rộng 35 cm.
- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại cụ thể là bà Trần Thị C phải có nghĩa vụ bồi thường cho chị Khương Thị Trúc G tổng số tiền 45.000.000đồng. Bà C đã nộp số tiền 5.000.000đồng để bồi thường cho bị hại nên bà C phải có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho bị hại số tiền còn lại là 40.000.000đồng.
Người bào chữa cho bị cáo là ông Đỗ Văn H trình bày: Đồng ý về tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo đã truy tố và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội do bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức còn hạn chế. Bị cáo có nhân thân tốt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Chí Th và người đại diện hợp pháp của bị cáo đồng ý với tội danh Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo truy tố, đồng ý với trình bày của người bào chữa, không tranh tụng tại phiên tòa và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Côn Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Khoảng 04 giờ 40 phút ngày 01/05/2022, tại quán Làng Nướng trên đường Vũ Văn Hiếu thuộc khu dân cư số 5, huyện Côn Đảo; bị cáo Phạm Chí Th đã có hành vi sử dụng vũ lực, dùng dao đe dọa để giao cấu trái với ý muốn của chị Khương Thị Trúc G. Mặc dù bị cáo thực hiện hành vi chưa đạt về hậu quả nhưng xét những chứng cứ được xác định nêu trên thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm” quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo Phạm Chí Th tại thời điểm phạm tội là người chưa Th niên (17 tuổi 02 tháng 03 ngày) nhưng đến độ tuổi này, bị cáo đã có đủ nhận thức và hiểu biết hành vi dùng vũ lực để giao cấu với bị hại là phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm danh sự, nhân phẩm, tinh thần, quyền bất khả xâm pham về thân thể của bị hại mà còn làm mất trật tự trị an địa phương và bị lên án mạnh mẽ trong dư luận xã hội. Sự cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội đồng thời mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định một mức hình phạt phù hợp.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục một phần hậu quả cho bị hại. Bị cáo phạm tội chưa đạt và tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Như vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 141; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi bị cáo đã thực hiện.
[5] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo thì thấy rằng: Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định hình phạt là phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nên chấp nhận.
[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không đảm nhiệm chức vụ và không hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,uy tín bị xâm phạm số tiền là 20.000.000đồng; bồi thường thiệt hại do thu nhập bị mất, bị giảm sút là 45.000.000đồng.
Trước khi mở phiên tòa; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo là bà Trần Thị C với bị hại là chị Khương Thị Trúc G đều thừa nhận hiện nay bị cáo không có tài sản gì. Do đó, chị Khương Thị Trúc G chỉ yêu cầu bà Trần Thị C phải có nghĩa vụ bồi thường về tổn thất tinh thần và thiệt hại do thu nhập bị mất, bị giảm sút cho chị Khương Thị Trúc G tổng cộng số tiền là 45.000.000đồng. Bà Trần Thị C đồng ý có nghĩa vụ bồi thường cho chị Khương Thị Trúc G tổng cộng số tiền là 45.000.000đồng. Bà Trần Thị C đã nộp số tiền 5.000.000đồng tại cơ quan công an để bồi thường cho chị Khương Thị Trúc G nên bà Trần Thị C phải có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho chị Khương Thị Trúc G số tiền còn lại là 40.000.000đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, không có tài sản riêng để bồi thường. Do đó, người đại diện theo pháp luật của bị cáo là bà Trần Thị C với bị hại là chị Khương Thị Trúc G tự nguyện thỏa thuận được với nhau về bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra; sự thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần áp dụng các Điều 584, 585, 586 và Điều 592 Bộ luật Dân sự để ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên cụ thể như sau:
Bà Trần Thị C phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chị Khương Thị Trúc G tổng số tiền là 45.000.000đồng. Bà Trần Thị C đã nộp số tiền 5.000.000đồng để bồi thường cho chị Khương Thị Trúc G (theo biên lai thu tiền số 0003267 ngày 22/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo). Do đó, bà Trần Thị C phải có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho chị Khương Thị Trúc G số tiền còn lại là 40.000.000đồng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo có trách nhiệm giao trả cho bị hại là chị Khương Thị Trúc G số tiền 5.000.000đồng theo biên lai thu tiền số 0003267 ngày 22/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo.
[8] Về vật chứng của vụ án:
- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 68P1 - X, màu đen xám, số khung: 5836KY044295, số máy: JF86E2108738. Quá trình điều tra xác định là xe của bà Trần Thị C. Bị cáo mượn xe để phạm tội thì bà C không biết nên ngày 15/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe trên cho bà Trần Thị C là phù hợp.
- Đối với 01 (một) con dao dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại màu: trắng dài 18cm, cán dao bằng nhựa màu: đen dài12cm; 01 (một) áo ngủ, màu nâu đỏ, đã qua sử dụng; 01 (một) phần gương vỡ, kích thước: dài 31 cm, rộng 17 cm; 01 (một) phần cửa ra vào bằng tấm xi măng bo, kích thước: dài 90 cm, rộng 35 cm là vật không còn giá trị sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị hại và tại phiên tòa bị hại từ chối nhận lại nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) đôi dép, màu: xanh đỏ, loại dép xỏ ngón, hiệu ALANCA đã qua sử dụng; 01 (một) áo sơ mi, màu đen, đã qua sử dụng; Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo không còn giá trị sử dụng. Tại phiên tòa, bị cáo từ chối nhận lại nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.
(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/8/2022).
[9] Về án phí: Phạm Chí Th phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước; Đối với án phí dân sự sơ thẩm: Do các bên đã thỏa thuận bồi thường được với nhau trước khi mở phiên tòa nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Chí Th phạm tội “Hiếp dâm”.
Căn cứ khoản 1 Điều 141; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 91; Điều 101; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Phạm Chí Th 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 18/5/2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586 và Điều 592 Bộ luật Dân sự:
Ghi nhận sự thỏa thuận tự nguyện bồi thường thiệt hại giữa người đại diện theo pháp luật của bị cáo là bà Trần Thị C với bị hại là chị Khương Thị Trúc G như sau: Bà Trần Thị C có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho chị Khương Thị Trúc G tổng số tiền là 45.000.000đồng. Bà Trần Thị C đã bồi thường 5.000.000đồng nên phải có nghĩa bồi thường tiếp cho chị Khương Thị Trúc G số tiền còn lại là 40.000.000đồng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo có trách nhiệm giao trả cho chị Khương Thị Trúc G số tiền 5.000.000đồng theo biên lai thu tiền số 0003267 ngày 22/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo.
3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại màu: trắng dài 18cm, cán dao bằng nhựa màu: đen dài 12cm; 01 (một) đôi dép, màu: xanh đỏ, loại dép xỏ ngón, hiệu ALANCA, đã qua sử dụng; 01 (một) áo ngủ, màu nâu đỏ, đã qua sử dụng; 01 (một) áo sơ mi, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) phần gương vỡ, kích thước: dài 31 cm, rộng 17 cm; 01 (một) phần cửa ra vào bằng tấm xi măng bo, kích thước: dài 90 cm, rộng 35 cm;
(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/8/2022).
6. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, Phạm Chí Th phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/9/2022). Bị cáo; người đại diện theo pháp luật của bị cáo; người bào chữa; bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo. Đối với người đại diện theo pháp luật của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì thời hạn này được tính kể từ ngày bản án được Tòa án tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội hiếp dâm số 12/2022/HS-ST
Số hiệu: | 12/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Côn Đảo - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về