TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 103/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 31 tháng 8 năm 2023; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: ý, sinh ngày 21/10/2006; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT: Thôn R, xã Phú S, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: Thôn R, xã Phú S, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: k’ Ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông ùng và bà K’ Lai; gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ trong gia đình; tiền án: không.
Tiền sự: Tại quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng số 02/QĐ - TA ngày 29/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với ý với thời gian là 24 tháng, kể từ ngày người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính bị tạm giữ để đưa đi trường giáo dưỡng.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2023 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lâm Hà. “Bị cáo có mặt”.
Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông K’T, bà K’L (Bố mẹ đẻ bị cáo).
Trú tại: Thôn P, xã Phú S, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Ông ùng vắng mặt, bà K’ Lai có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Anh Vũ, sinh năm: 1979 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Bị hại: Bà Hoàng Thị Q , sinh năm 1987.
Trú tại: Thôn P, xã Phú S, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Người làm chứng:
- Bà K’W, sinh năm 1984.
Trú tại: Thôn Pr, xã Phú S, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/5/2023, ý sinh ngày 21/10/2006, trú tại thôn Pretieng 2, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đi đến nhà bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1987 ở cùng thôn để xin nước uống. Khi đến nhà bà Q thì thấy cổng trước khóa nên ý đi vòng ra sau vườn cà phê để đi vào khu vực bếp của bà Q thì nhìn thấy bà Q đi ra, bà Q hỏi: “mày đi vào đây làm gì”, ý nói vào để xin nước uống, bà Q nói sao không đi cửa trước mà đi cửa sau vườn, vào đây ăn cắp phải không. Lúc này ý thấy bà Q ở nhà một mình nên nảy sinh ý định giao cấu với bà Q. ý đẩy bà Q vào trong nhà để bếp củi thì bà Q vùng ra chạy xuống bậc ta ly rồi chạy ra đến khu vực phía hông sau nhà thì ý đuổi theo túm được bà Q và vật ngã bà Q xuống đám cỏ, hai người giằng co bà Q bỏ chạy được ra sau nhà đến gần đường bê tông, ý lại đuổi kịp túm áo bà Q, bà Q giằng ra nhưng không được hai người giằng co và kéo bà Q qua đường bê tông sang vườn cà phê đối diện nhà cách đường bê tông khoảng 10 mét, bà Q bám được vào cây cà phê, lúc này ý lấy tay kẹp cổ bà Q thì bà Q buông tay ra. Sau đó ý dùng một tay xé quần ngoài và quần lót của bà Q và nói “cho tao làm cái”, lúc này bà Q đã thấm mệt nên nói “mày bỏ tao ra đi vào trong nhà tắm rửa sạch sẽ rồi tao cho” nhưng ý không chịu đòi quan hệ ngoài vườn. Thấy ý vẫn kẹp cổ mình nên bà Q kêu lên “cứu với, cứu với... hiếp dâm” ngay lúc này có bà K’ Wơ đi đến ngó xuống vườn cà phê cách đường khoảng 15 mét thấy bà Q chạy lên đường và thấy một bóng người chạy đi mất. Khi gặp K’ Wơ bà Q nói có người hiếp em, K’ Wơ hỏi ai thì Q nói thằng dân tộc. Sau đó bà Q đi vào nhà và lấy xe máy đi báo Công an. Ngày 09/5/2023 cơ quan Công an đã xác định được ý nên mời ý lên làm việc. Tại cơ quan Công an ý đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên. (BL: 87 - 94; 101 - 113).
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) áo thun màu hồng; 01 (một) quần thun màu xám sọc trắng bị rách phần đũng quần; 01 (một) quần lót màu hồng bị rách một phần; 01 (một) mảnh vải màu hồng kích thước 05 x 01cm; 01 (một) áo thun màu tím, sau áo có số 05 màu trắng; 01 (một) quần Jean màu đen. (BL: 36;38) Tại Kết luận giám định số 261/23 - KLTTCT - PYLĐ ngày 02 tháng 6 năm 2023 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Lâm Đồng kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Hoàng Thị Q tại thời điểm giám định là 0% (Không phần trăm). (BL: 79 - 80).
Tại bản cáo trạng số 109/CT - VKS - LH ngày 14/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố bị cáo ý ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử về tội: “Hiếp dâm”theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo ý không khiếu nại hay thắc mắc gì về bản Cáo trạng và khai nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo ý từ 24 đến 30 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét, giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo thun màu hồng; 01 (một) quần thun màu xám sọc trắng bị rách phần đũng quần; 01 (một) quần lót màu hồng bị rách một phần; 01 (một) mảnh vải màu hồng kích thước 05 x 01cm; 01 (một) áo thun màu tím, sau áo có số 05 màu trắng; 01 (một) quần Jean màu đen.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo ý khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/5/2023, bị cáo đi đến nhà bà Hoàng Thị Q để xin uống nước. Khi thấy bà Q ở nhà một mình thì bị cáo đã nảy sinh ý định giao cấu với bà Q. Bị cáo đã dùng vũ lực khống chế để giao cấu trái với ý muốn với bà Hoàng Thị Q.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, bản Cáo trạng truy tố, vật chứng thu giữ và những tài liệu, chứng cứ khác được phản ánh trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo ý phạm tội: “Hiếp dâm” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường nghiêm trọng, được thực hiện với lỗi cố ý, chỉ vì mục đích dục vọng thấp hèn của bản thân mà bị cáo đã dùng vũ lực lấy tay kẹp cổ bà Q, dùng tay xé quần ngoài và quần lót của bà Q để giao cấu trái ý muốn của bà Q. Do bà Q chống cự quyết liệt và la, hét. Sợ bị phát hiện nên bị cáo đã bỏ chạy và không thực hiện được đến cùng hành vi phạm tội và hậu quả chưa xảy ra. Việc không thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo, mặc dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “ Hiếp dâm” chưa đạt được quy định tại điều 15 và khoản 1 điều 141 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tự do tình dục, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.
Xét thấy, hiện nay tình hình tội phạm liên quan đến xâm phạm tình dục ngày càng gia tăng. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo sống biết tuân thủ pháp luật và để răn đe giáo dục phòng ngừa chung. Bên cạnh đó bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hiếp dâm và hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Khi thực hiện phạm tội và đến thời điểm xét xử sơ thẩm bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên chưa nhận thức được hết tác hại về những hành vi mà mình đã thực hiện. Nên cần áp dụng các quy định về người chưa thành niên phạm tội để xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, khi xem xét quyết định hình phạt cần căn cứ khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101 xem xét quyết định hình phạt bằng ¾ mức hình phạt tương ứng đối với người thành niên. Việc áp dụng hình phạt nhằm giáo dục giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để có cơ hội trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội và gia đình.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Hoàng Thị Qkhông có ý kiến và yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Vì vậy, về trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét, giải quyết.
[4] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án do cơ quan điều tra bàn giao sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà là 01 áo thun màu hồng, đã qua sử dụng;
01 cành cà phê kích thước dài 25cm, đã khô; 01 quần thun màu xám sọc trắng, đã qua sử dụng, phần đũng bị rách; 01 quần lót màu hồng, đã qua sử dụng bị rách một phần; 01 mảnh vải màu hồng, kích thước 05x01cm, đã qua sử dụng; 01 áo thun màu tím, sau áo có số 05 màu trắng, đã qua sử dụng; 01 quần Jean màu đen, đã qua sử dụng. Xét thấy, đ ây là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng tên tuyên tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo ý phạm tội: “Hiếp dâm”.
Áp dụng khoản 1 Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;
khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo ý 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun màu hồng, đã qua sử dụng; 01 cành cà phê kích thước dài 25cm, đã khô; 01 quần thun màu xám sọc trắng, đã qua sử dụng, phần đũng bị rách; 01 quần lót màu hồng, đã q ua sử dụng bị rách một phần; 01 mảnh vải màu hồng, kích thước 05x01cm, đã qua sử dụng; 01 áo thun màu tím, sau áo có số 05 màu trắng, đã qua sử dụng; 01 quần Jean màu đen, đã qua sử dụng.
(Tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 28/8/2023).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo ý phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội hiếp dâm số 103/2023/HS-ST
Số hiệu: | 103/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về