Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 76/2021/HS-ST

TÒA ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 23/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 75/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn M1; Sinh ngày 10 tháng 7 năm 1987; Nơi cư trú: Khu M, xã Khả C, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Hà Văn L - Đã chết; Mẹ đẻ: Trần Thị M, sinh năm 1968; Vợ, Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/7/2021 đến ngày 02/8/2021 sau đó chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Phú Thọ.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lã Thành C - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

* Người bị hại: Cháu Hà Thị Tuyết M, sinh ngày 26/4/2009. (Có mặt).

* Người đại diện theo pháp luật cho cháu M: Chị Phùng Thị Y, sinh năm 1985 - mẹ đẻ cháu M. (Có mặt).

Đều địa chỉ: Khu M, xã Long C, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu M: Ông Bùi Đ D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

* Đại diện trường THCS Long C, huyện Tân Sơn: Bà Hà Thị Thanh H - Giáo viên chủ nhiệm. (Có mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hà Văn C, sinh năm 1990. (Có mặt). Địa chỉ: Khu M, xã Khả C, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

2. Bà Trần Thị M, sinh năm 1968. (Có mặt). Địa chỉ: Khu M, xã Khả C, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nh• sau:

Tối ngày 17/7/2021, cháu Hà Thị Tuyết M đi xem bóng chuyền ở nhà văn hóa khu M, xã Long Cốc, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thì gặp anh Hà Huy Đ1, sinh năm 2004 và anh Hà Văn Đ2, sinh năm 1993 đều thường trú tại xóm M, xã Văn Luông, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cháu M giới thiệu với anh Đ1 và anh Đ2 tên cháu là Th, sinh năm 2003, nhà ở xóm C đi chơi ở đây không nhớ đường về. Do lúc này đã muộn nên anh Đ1 chở cháu M về nhà mình tại xóm M, xã Văn Luông cho ngủ nhờ. Cháu M ăn, ở nhà anh Đ1 từ tối ngày 17/7/2021 đến chiều 19/7/2021 thì bố của anh Đ1 là ông Hà Văn Đ3 không cho cháu M ở lại nữa. Ông Đ3 bảo cháu M chỉ đường để ông Đ3 chở cháu M về. Do không muốn về nhà nên Cháu M đã chỉ đường cho ông Đ3 đến nhà Hà Văn M1 tại khu M, xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Cháu M và Hà Văn M1 quen nhau từ trước qua mạng xã hội, cháu M đã có lần đến nhà của M1 chơi nên biết nhà và số điện thoại của M1. Khi đến nhà M1 thì ông Đ3 để cháu M ở lại rồi đi về. Sau khi ông Đ3 về, do nhà M1 khóa cửa, không có ai ở nhà nên cháu M đã mượn điện thoại của người đi đường gọi cho M1. M1 bảo cháu M đợi M1 về. Khoảng 18 giờ 30, M1 về nhà và dùng xe mô tô biển kiểm soát 19C1-X chở M đi chơi. Khi đi đến khu Tr, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thì M1 muốn quan hệ tình dục với cháu M. M1 bảo với cháu M “Đi nhà nghỉ tí nhé” thì cháu M đồng ý. M1 chở cháu M vào Nhà nghỉ Anh Đ ở khu Tr, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. M1 vào quầy lễ tân gặp quản lý nhà nghỉ là ông Nguyễn Ngọc C để thuê phòng nghỉ. Sau đó M1 và cháu M vào phòng nghỉ số 8. Khi vào phòng cháu M đi tắm còn M1 nằm trên giường. Sau khi tắm xong, cháu M lên giường nằm cùng M1. M1 và cháu M ôm, hôn nhau, M1 hỏi cháu M “cho anh làm tí nhé” thì cháu M đồng ý. M1 cởi quần áo của cháu M và tự cởi quần áo của mình. M1 cho dương vật đã cương cứng của mình vào âm đạo của cháu M và quan hệ tình dục khoảng 03 phút thì xuất tinh vào âm đạo của cháu M. Sau khi quan hệ tình dục xong, cháu M và M1 vào nhà vệ sinh tắm rồi tự mặc quần áo và đi về. Khi ra lấy xe thì M1 thấy xe đã hết xăng, M1 cũng hết tiền đổ xăng nên M1 bảo cháu M để M1 nhờ bạn của M1 đưa cháu M về, cháu M đồng ý. M1 gọi điện cho Trần Văn Đ, sinh năm 1993, thường trú tại khu Tr, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và nhờ Đ đưa cháu M về. Trần Văn Đ đã đến cổng nhà nghỉ đón cháu M bằng xe máy còn M1 đi về nhà.

Trần Văn Đ sau khi đón cháu M đã đưa cháu M đi chơi sau đó cháu M bảo Đ đưa cháu M quay lại nhà ông Đ3 ở xóm M, xã Văn Luông, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Ông Đ3 khi thấy cháu M quay lại đã không đồng ý cho cháu M ở nhà mình và đuổi cháu M đi về. Khi ông Đ3 đuổi cháu M thì anh Hà Văn Đ2 nhà ở gần đó đã lấy xe máy để đưa cháu M về (Anh Đ2 là người đi chơi cùng anh Đ1, biết cháu M từ tối 17/7/2021). Do cháu M không muốn về nhà nên anh Đ2 đưa cháu M về nhà mình để ngủ nhưng bố mẹ anh Đ2 không cho cháu M ngủ lại. Anh Đ2 bảo cháu M ra nhà nghỉ nằm đợi bố mẹ anh Đ2 đi ngủ thì sẽ đưa M quay lại nhà mình ngủ qua đêm thì cháu M đồng ý. Sau đó anh Đ2 đưa cháu M đến nhà nghỉ Hương T thuê phòng ở cùng cháu M khoảng một tiếng rồi lại đưa M về nhà. Nhưng bố mẹ anh Đ2 không cho cháu M ngủ lại. Anh Đ2 đã đưa cháu M đến nhà cô của anh Đ2 ngủ nhờ.

Chiều ngày 20/7/2021, do nhiều ngày cháu M không về nhà nên bố mẹ cháu M là ông Hà Văn D và bà Phùng Thị Y đã đi tìm cháu M và thấy cháu M đang ở sân nhà văn hóa khu M, xã Văn Luông, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi đón cháu M về, nhận thấy cháu M ít nói, có nhiều biểu hiện khác bình thường nên bà Y đã hỏi cháu M. Cháu M đã kể lại toàn bộ nội dung bị xâm hại tình dục như đã nêu trên. Ngày 26/7/2021, bà Y đã có đơn gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn tố cáo Hà Văn M1 về hành vi xâm hại tình dục đối với cháu Hà Thị Tuyết M.

Ngày 27/7/2021, Hà Văn M1 đến Công an huyện Thanh Sơn đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi quan hệ tình dục với cháu Hà Thị Tuyết M vào ngày 19/7/2021 như đã nêu trên. M1 tự nguyện giao nộp xe mô tô 19C1-X và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A01 màu đen có vỏ ốp màu xanh bên trong lắp sim số 0877.023.X đã dùng để chở và liên lạc với cháu M tối 19/7/2021.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Thọ giám định đối với cháu Hà Thị Tuyết M. Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 46/GĐ-TE ngày 28/7/2021 của Trung tâm Pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ kết luận: “Bộ phận sinh dục của cháu Hà Thị Tuyết M: Màng trinh bị rách cũ ở điểm 01 giờ, 06 giờ, riêng vị trí 06 giờ rách sát gốc màng trinh. Không tìm thấy hình ảnh tinh trùng và xác tinh trùng trong dịch âm hộ, âm đạo của cháu Hà Thị Tuyết M.” Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Hà Văn M1 đã thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi xâm hại tình dục đối với cháu M của mình. Lời khai của Hà Văn M1 phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu điều tra khác do Cơ quan điều tra - Công an huyện Thanh Sơn thu thập được. Ngày 02/8/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hà Văn M1 về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Các quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn phê chuẩn để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, cô giáo Hà Thị Thanh H - chủ nhiệm tại trường THCS Long C nơi cháu M học tập đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Bà Trần Thị M (mẹ bị cáo M1) không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả cho bà số tiền bà đã bồi thường thay cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Hà Văn C trình bày chiếc xe máy BKS 19C1-X là của anh C, anh cho bị cáo M1 (là anh trai của anh C) mượn để đi làm. Ngày 19/7/2021 bị cáo M1 sử dụng đi đâu, làm gì anh C không biết. Nay anh C xin được nhận lại chiếc xe trên để tiếp tục sử dụng.

Ngoài nội dung bị Hà Văn M1 xâm hại tình dục như đã nêu trên, cháu M còn trình bày bị Trần Văn Đ xâm hại tình dục. Cụ thể: Sau khi đón cháu M tại cổng nhà nghỉ Anh Đ, Trần Văn Đ đã đưa cháu M đi uống nước, sau đó Trần Văn Đ và cháu M đã vào nhà nghỉ VIP Hà N thuộc khu M, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thuê phòng nghỉ và đã quan hệ tình dục với cháu M. Từ các tài liệu điều tra chỉ có đủ căn cứ để xác định Trần Văn Đ đã đón cháu M tại cổng nhà nghỉ Anh Đ. Sau đó Đ đưa cháu M đi đâu, làm gì thì ngoài lời khai của cháu M không còn tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh. Do vậy, không đủ căn cứ để xác định Đ đã quan hệ tình dục với cháu M như lời khai của cháu M. Đối với hành vi này của Trần Văn Đ, xét thấy không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án này, Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh, làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với khoảng thời gian từ tối 17/7/2021 đến chiều 19/7/2021, khi cháu M ở nhà anh Hà Huy Đ1 và khoảng thời gian khi anh Hà Văn Đ2 và cháu M ở nhà nghỉ Hương T đã được điều tra làm rõ, xác định cháu M không bị xâm hại tình dục nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với ông Nguyễn Ngọc C là quản lý nhà nghỉ Anh Đ có dấu hiệu phạm tội “Không tố giác tội phạm”. Tuy nhiên, khi Hà Văn M1 và cháu M đến nhà nghỉ thì chỉ có M1 gặp ông C để thuê phòng nghỉ theo giờ, không nghỉ qua đêm nên ông C không hỏi, cũng không biết cháu M dưới 13 tuổi. Do vậy, hành vi của ông C không cấu thành tội “Không tố giác tội phạm”, là hành vi vi phạm hành chính đối với quy định về quản lý lưu trú. Cơ quan điều tra đã chuyển các tài liệu liên quan đến Công an huyện Thanh Sơn để xử lý đối với hành vi này của ông C theo đúng quy định của pháp luật là phù hợp.

Tại bản cáo trạng số: 77/CT-VKSThS ngày 25/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Hà Văn M1 về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” được quy định tại điểm b khoản 1 điều 142 - Bộ luật hình sự 2015. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo M1 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm b khoản 1 điều 142; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn M1 từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 27/7/2021.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn M1.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận thỏa thuận của bà Phùng Thị Y là mẹ đẻ, người đại diện theo pháp luật cho cháu M và bị cáo Hà Văn M1: Bị cáo M1 phải bồi thường cho cháu M tổng số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Xác nhận bị cáo và gia đình bị cáo M1 đã bồi thường cho cháu M số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Nay bị cáo M1 phải tiếp tục bồi thường cho cháu M số tiền còn lại là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc quần vải đã cũ có nhiều kẻ sọc màu đen trắng; 01 chiếc áo vải loại áo hai dây màu nâu đã cũ, trên áo có nhiều hoa văn màu đen; 01 chiếc áo ngực màu đỏ đã cũ; 01 chiếc quần lót nữ màu đen đã cũ của cháu M.

Trả lại cho bị cáo các tài sản gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A01 màu đen có vỏ ốp màu xanh bên trong lắp sim số 0877.023.X. Nhưng tạm giữ tài sản trên của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

Trả lại cho anh Hà Văn C: 01 (Một) xe mô tô Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 19C1-X, số máy JA39E1310432, số khung 3912KY439560, xe không có gương chiếu hậu (xe cũ đã qua sử dụng).

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Hà Văn M1 - ông Lã Thành C, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ trình bày: Bị cáo M1 sinh ra và lớn lên trong gia đình cơ bản, do bị cáo còn ít tuổi chưa va chạm với cuộc sống, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng kinh tế khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật còn ít. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động để gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường cho người bị hại, đại diện cho người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất mà Kiểm sát viên đã đề nghị để bị cáo lấy đó làm bài học cho bản thân, sống có ích cho gia đình xã hội. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Hà Văn M1.

Quan điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cháu Hà Thị Tuyết M - ông Bùi Đ D, Trợ Giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ trình bày: Bị cáo M1 là người đã thành niên, không tập trung làm ăn mà chơi bời lêu lổng, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của cháu M, gây cho cháu tâm lý hoang mang, hoảng sợ. Sau khi sự việc xẩy ra bị cáo và gia đình có xin lỗi bị hại, bị hại và gia đình cũng có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), tuy nhiên bị cáo mới bồi thường được số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng), nay đề nghị Tòa án giải quyết buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo một mức án phù hợp để giáo dục bị cáo, làm gương cho những người khác sống không tuân thủ pháp luật.

Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo Hà Văn M1 nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo biết hành vi phạm tội của bị cáo là sai, xin Hội đồng xét xử sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người đại diện theo pháp luật cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Bị cáo Hà Văn M1 là người đã thành niên nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến danh dự, sức khỏe của người dưới 16 tuổi. Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, các vật chứng được thu giữ, bản kết luận pháp y cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 19/7/2021, tại nhà nghỉ Anh Đ thuộc khu Tr, xã Văn Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Hà Văn M1 đã thực hiện hành vi giao cấu (quan hệ tình dục) với cháu Hà Thị Tuyết M. Khi Hà Văn M1 thực hiện hành vi quan hệ tình dục được sự đồng ý của cháu M, tại thời điểm quan hệ tình dục cháu M mới 12 tuổi 02 tháng 23 ngày. Hành vi của bị cáo M1 đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đối với hành vi phạm tội của bị cáo M1 là đúng người, đúng tội.

[3]. Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng bởi hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi thực hiện là vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục, xâm phạm đến quá trình phát triển bình thường về sức khỏe và tinh thần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai của cháu Hà Thị Tuyết M là người dưới 13 tuổi. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, do đó phải xử lý theo pháp luật hình sự để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Khi lượng hình, HĐXX xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định hình phạt khách quan, đúng pháp luật.

[4]. Hội đồng xét xử nhất trí với đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo của Kiểm sát viên tại Bản luận tội và quan điểm của người bào chữa cho bị cáo bởi lẽ: Bị cáo Hà Văn M1 sinh ra và lớn lên trong gia đình thuần nông, là người dân tộc sinh sống ở khu vực miền núi của huyện Thanh Sơn nên hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Khi sự việc xẩy ra bị cáo tự nguyện tác động để gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại một khoản tiền nhất định. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Hà Văn M1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp và cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 142 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Văn M1 là phù hợp.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bà Phùng Thị Y người đại diện theo pháp luật cho cháu M yêu cầu bị cáo M1 phải bồi thường tổng số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Bị cáo M1 đồng ý bồi thường số tiền trên và bị cáo đã tác động để gia đình bồi thường cho bị hại được số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), số tiền còn lại 10.000.000đ (Mười triệu đồng) bị cáo đồng ý sẽ có trách nhiệm bồi thường, nhưng hiện nay chưa có để bồi thường. Vì vậy cần buộc bị cáo phải bồi thường tiếp số tiền còn lại cho bị hại theo quy định.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Các vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng, bị hại không có ý kiến xin lại nên tịch thu tiêu hủy gồm: 01 chiếc quần vải đã cũ có nhiều kẻ sọc màu đen trắng;

01 chiếc áo vải loại áo hai dây màu nâu đã cũ, trên áo có nhiều hoa văn màu đen; 01 chiếc áo ngực màu đỏ đã cũ; 01 chiếc quần lót nữ màu đen đã cũ của cháu M.

Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A01 màu đen có vỏ ốp màu xanh, bên trong lắp sim số 0877.023.X, máy cũ đã qua sử dụng bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Hà Văn M1 là phù hợp nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

Đối với 01 (Một) xe mô tô Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 19C1-X, số máy JA39E1310432, số khung 3912KY439560, xe không có gương chiếu hậu (xe cũ đã qua sử dụng). Bị cáo M1 mượn xe của anh C để đi làm, còn việc bị cáo M1 sử dụng vào việc gì khác thì anh không biết nên cần trả lại cho chủ sở hữu là anh Hà Văn C là phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo Hà Văn M1 phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 142; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn M1 phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn M1 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 27/7/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 142 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hà Văn M1.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 590, Điều 592, Điều 357 của Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự thỏa thuận của bà Phùng Thị Y là mẹ đẻ, người đại diện theo pháp luật cho bị hại là cháu Hà Thị Tuyết M và bị cáo Hà Văn M1: Bị cáo M1 phải bồi thường cho cháu M tổng số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Xác nhận bị cáo và gia đình bị cáo M1 đã bồi thường cho cháu M số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Nay bị cáo M1 phải tiếp tục bồi thường cho cháu M số tiền còn lại là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án thì bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 - Bộ luật dân sự 2015.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc quần vải đã cũ có nhiều kẻ sọc màu đen trắng; 01 (một) chiếc áo vải loại áo hai dây màu nâu đã cũ, trên áo có nhiều hoa văn màu đen; 01 (một) chiếc áo ngực màu đỏ đã cũ; 01 (một) chiếc quần lót nữ màu đen đã cũ của cháu M.

Trả lại cho bị cáo Hà Văn M1 tài sản gồm: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A01 màu đen có vỏ ốp màu xanh, bên trong lắp sim số 0877.023.X, máy cũ đã qua sử dụng. Nhưng tạm giữ tài sản trên của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

Trả lại cho anh Hà Văn C tài sản gồm: 01 (Một) xe mô tô Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 19C1-X, số máy JA39E1310432, số khung 3912KY439560, xe không có gương chiếu hậu (xe cũ đã qua sử dụng).

Vật chứng là vật đã được cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn chuyển giao cho cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/11/2021.

4. Về án phí:

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hà Văn M1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, đại diện theo pháp luật cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 76/2021/HS-ST

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về