TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai mở phiên tòa công kH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLST-HS ngày 21/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HS ngày 27/8/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Sùng Văn H (Tên gọi khác: Không). Sinh ngày 15/11/2003 tại huyện C, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 12/12;
Dân tộc: H’Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Sùng Seo P và bà Thào Thị G.
Chung sống như vợ chồng với chị Thào Thị T1; có 01 con, sinh ngày 08/3/2021.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Nhân thân: Tốt.
Bị bắt tạm giam từ ngày 20/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai; Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Sùng Seo P và bà Thào Thị G. Cùng địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai. Đều có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Bị hại: Cháu Sùng Thị Hoa L. Sinh ngày 02/3/2009. Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Anh Sùng Seo B. Địa chỉ:
Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Ông Hà Thanh Q - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Thào Thị T1. Địa chỉ:
Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Người làm chứng :
+ Anh Sùng Seo N. Có mặt.
+ Anh Sùng Seo S1. Có mặt.
+ Ông Sùng A P1. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Lào Cai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ ngày 29/11/2020 đến 28/3/2021, Sùng Văn H đã 03 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu Sùng Thị Hoa L, cụ thể các lần như sau:
Lần 1: Khoảng 01 giờ ngày 29/11/2020, biết cháu L đang ở nhà một mình nên H nảy sinh ý định giao cấu với cháu L. H đi bộ đến nhà cháu L, trèo qua ô thoáng phía trên cửa chính để vào nhà rồi đi đến khu vực cửa phụ mở chốt cửa, lấy ở giá treo gần cửa phụ 01 con dao rựa. H cầm dao đi vào buồng ngủ đòi quan hệ tình dục với cháu L nhưng cháu L không đồng ý. H giơ dao lên dọa nên cháu L đã đồng ý cho H quan hệ. H lật váy cháu L lên trên bụng rồi tự tụt quần của mình xuống đến đầu gối, nằm đè lên trên người cháu L, tay trái của H bóp vú cháu L ở bên ngoài áo, được khoảng 05 phút sau, dương vật của H cương cứng nên H dùng tay phải cầm dương vật đưa vào âm đạo cháu L nhưng cháu kêu đau và cựa quậy nên H không cho dương vật vào trong âm đạo của cháu L được. H cầm dương vật cọ sát với bộ phận sinh dục của cháu L, được khoảng 06 phút thì H xuất tinh lên bụng của cháu L, sau đó H đứng dậy mặc quần, cất dao và đi về nhà.
Lần 2: Vào khoảng 01 giờ ngày 13/12/2020, H tiếp tục nảy sinh ý định giao cấu với cháu L, nên đi bộ từ nhà đến nhà cháu L, trèo qua ô thoáng phía trên cửa chính để vào nhà, rồi đi ra khu vực của phụ mở chốt cửa phụ đẩy mở hé sẵn cửa, sau đó lấy con dao rựa lần trước H đã sử dụng rồi cầm dao đi vào buồng ngủ của cháu L đòi cháu quan hệ tình dục nhưng cháu L không đồng ý. H dọa không đồng ý thì đánh nên L đã đồng ý cho H quan hệ. H dùng tay phải tốc váy của cháu L lên trên bụng, rồi đứng dậy cởi quần vứt xuống cuối giường. Lúc này cháu L quay người nằm sấp, H nằm đè lên lưng của cháu L tay phải của H cầm dương vật đã cương cứng đưa vào âm đạo của cháu L từ phía sau nhưng không được. H bảo cháu L nằm ngửa lại, cháu L xoay người nằm ngửa. H nằm đè lên người cháu rồi dùng tay phải cầm dương vật đã cương cứng đưa vào âm đạo cháu L nhưng không cho vào được. Khoảng 15 phút sau, H dùng sức ấn mạnh làm đầu dương vật sâu vào trong âm đạo của cháu L được khoảng 02-03 cm. Bị đau, cháu L cựa quậy làm dương vật của tuột ra bên ngoài. Cùng lúc, H xuất tinh ra giường, sau đó đứng dậy mặc quần, cất dao rồi đi về nhà qua cửa phụ đã mở trước đó.
Lần 3: Khoảng 01 giờ ngày 28/3/2021, H tiếp tục nảy sinh ý định giao cấu với cháu L nên đi bộ từ nhà đến nhà cháu L. H trèo qua ô thoáng phía trên cửa chính để vào nhà rồi đi ra khu vực cửa phụ mở chốt cửa. Lấy ở giá treo dao gần cửa phụ 01 con dao nhọn và cầm dao đi vào phòng ngủ của cháu L. H để con dao và điện thoại trên đầu giường, ngồi bên trái vị trí cháu L đang nằm ngủ, dùng tay phải sờ vú của cháu L ở bên ngoài áo làm cháu giật mình tỉnh dậy ôm chăn vào ngực. Thấy cháu L định khóc, H quát và đòi quan hệ tình dục nhưng cháu L không đồng ý. H dùng tay trái cầm con dao nhọn giơ về phía cháu L đe dọa, rồi dùng tay phải tát vào mặt cháu L H cái. Cháu L bắt đầu khóc, thấy vậy H dùng tay bóp vào cổ cháu L, mục đích là để cháu L không khóc nữa. Thấy trên tường phía đầu giường có treo 01 dây vải màu đỏ (loại khăn quàng đỏ của học sinh), H lấy định trói tay cháu L thì L khóc to và liên tục gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi”. Sợ bị phát hiện nên H bỏ chạy ra ngoài nhà theo lối cửa phụ mở sẵn, H vứt con dao ở cửa phụ rồi chạy về nhà.
Đến ngày 05/4/2021, anh Sùng Seo Nhà (bố đẻ cháu L) đến Công an xã Lùng Thẩn tố cáo việc H đã thực hiện hành vi hiếp dâm cháu L.
- Tại bản Kết luận pháp y về tình dục số 75/TD ngày 13/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đối với cháu Sùng Thị Hoa L kết luận:
Trên cơ thể không có dấu vết thương tích. Mức tổn hại cơ thể 0%; Bộ phận sinh dục không tổn thương. Màng trinh rách cũ tại vị trí 03 giờ, thời gian rách trên 14 ngày, không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo; Không có tH - Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 133 ngày 25/6/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đối với Sùng Văn H kết luận:
Bộ phận sinh dục phát triển B thường; Độ cương cứng của dương vật đủ khả năng thực hiện hành vi quan hệ tình dục và xuất tinh.
Bản cáo trạng số 34/CT-VKS-P2 ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Sùng Văn H về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Bị cáo Sùng Văn H kH nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai giữ quyền công tố phát biểu quan điểm: Giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sùng Văn H phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” Căn cứ vào đ khoản 2 Điều 142, điểm b, s khoản 1 Điều 51, 91, 101 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng Văn H từ 09 đến 11 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa gia đình bị cáo với đại diện hợp pháp của người bị hại, buộc bố, mẹ bị cáo là ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G phải bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 42.260.000đồng. Xác nhận ông Sùng Seo P là bố của bị cáo đã bồi thường số tiền là 4.260.000đồng, số tiền còn lại buộc ông P và bà G phải bồi thường là 38.000.000đồng.
Đề nghị xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào đ khoản 2 Điều 142, điểm b, s khoản 1 Điều 51, 91, 101 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng Văn H 09 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và đại diện bị hại về P bồi thường dân sự.
Đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Sùng Seo B: Đề nghị hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 142, điểm b, s khoản 1 Điều 51, 91, 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Sùng Văn H theo đúng quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của gia đình bị cáo và đại diện người bị hại về P bồi thường dân sự.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Sùng Seo P: Nhất trí với yêu cầu của đại diện người bị hại và xác nhận đã bồi thường thay cho bị cáo số tiền 4.260.000 đồng và không yêu cầu bị cáo phải hoàn lại.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thào Thị Tùng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho chị chiếc điện thoại Vivo màu đỏ mận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Tại phiên tòa bị cáo Sùng Văn H kH nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời kH nhận tội của bị cáo phù hợp với lời kH tại cơ quan điều tra, lời kH của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định, quá trình thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác đã có trong hồ sơ vụ án, vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định:
Trong các ngày 29/11/2020; 13/12/2020; 28/3/2021, bị cáo Sùng Văn H đã 03 lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu Sùng Thị Hoa L. Lần thứ nhất, do cháu L cựa quậy nên bị cáo không cho được dương vật vào trong âm đạo. Bị cáo đã cầm dương vật cọ sát với bộ phận sinh dục của cháu L, được khoảng sáu phút thì xuất tinh lên bụng của cháu L. Lần thứ H, bị cáo đã cho dương vật vào trong âm đạo của cháu L được khoảng 2-3 cm sau đó xuất tinh. Như vậy, H lần đầu bị cáo đã hoàn thành hành vi hiếp dâm. Lần thứ ba, khi đang đe dọa cháu L để thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì cháu L khóc to, sợ bị phát hiện nên bị cáo đã bỏ chạy nên hành vi phạm tội lần thứ ba thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
Bị cáo thực hiện hành vi hiếp dâm lần thứ nhất khi cháu L 11 tuổi 8 tháng 26 ngày, lần thứ H khi cháu L 11 tuổi 9 tháng 11 ngày, lần thứ ba khi cháu L 12 tuổi 26 ngày.
Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Sùng Văn H đã cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” với tình tiết định khung là “Phạm tội 02 lần trở lên”. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm đ khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt:
Hành vi phạm tội của bị cáo Sùng Văn H là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến danh dự, nhân phẩm và quá trình phát triển B thường của trẻ em là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất B trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật và quyết định mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm phạm tội, bị cáo Sùng Văn H 17 tuổi 14 ngày, theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật hình sự, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, cần áp dụng các quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn kH nhận hành vi phạm tội của mình và bày tỏ thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một P hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị cáo số tiền 4.260.000 đồng. Tuy nhiên, tổng số tiền mà đại diện bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường là 42.260.000 đồng, số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường là không đáng kể so với tổng tiền yêu cầu nên Hội đồng xét xử không áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Đối với hành vi Sùng Văn H hiện đang có quan hệ sinh sống như vợ chồng với chị Thào Thị Tùng (Sinh năm 2005, nơi cư trú: xã Cán Cấu, huyện C, Lào Cai từ đầu năm 2020 và đã có 01 con chung sinh ngày 08/3/2021). Quá trình điều tra xác định, chị Thào Thị Tùng về chung sống như vợ chồng với H là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc và H bên gia đình đã làm lễ cưới theo phong tục của người H’mông. Tuy nhiên bị cáo chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” nên không đề cập xử lý trong vụ án này là phù hợp.
[4 ] Về trách nhiệm dân sự:
Quá trình điều tra, ông Sùng Seo Nhà là bố đẻ của người bị hại yêu cầu gia đình bị cáo Sùng Văn H bồi thường theo phong tục của người H’mông là 3.600.000 đồng tiền Việt Nam, 05 kg gà (tương đương 600.000đ) và 03 lít rượu (tương đương 60.000đ), tổng số tiền theo giá tại thời điểm đền bù là: 4.260.000 đồng. Đại diện hợp pháp của người bị hại anh Sùng Seo B yêu cầu bị cáo bồi thường tổn thất về mặt thể chất, tinh thần, danh dự nhân phẩm cho cháu Sùng Thị Hoa L số tiền là 38.000.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu bồi thường là 42.260.000 đồng.
Ông Sùng Seo P là bố đẻ của bị cáo đã bồi thường thay cho bị cáo số tiền 4.260.000đ và không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả. Tại phiên tòa, bị cáo Sùng Văn H nhất trí bồi thường cho người bị hại số tiền còn lại là 38.000.000 đồng.
Tuy nhiên, do bị cáo chưa đủ 18 tuổi và qua xác minh bị cáo sống chung với bố mẹ, không có tài sản riêng nên căn cứ quy định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự, cần buộc ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G là bố, mẹ đẻ của bị cáo Sùng Văn H phải bồi thường cho người bị hại số tiền 38.000.000đ là phù hợp quy định pháp luật.
[5] Về vật chứng Đối với vật chứng gồm 02 con dao bằng kim loại, 01 dây vải màu đỏ: là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo: là tài sản hợp pháp của chị Thào Thị Tùng nên cần trả lại cho chị Tùng.
[6] Về án phí: Bị cáo Sùng Văn H phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm, ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Sùng Văn H phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” Căn cứ vào đ khoản 2 Điều 142, điểm s khoản 1 Điều 51, 91, 101 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Sùng Văn H 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 20/4/2021.
Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 586, 592 Bộ luật Dân sự:
Buộc ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G (là bố mẹ đẻ của bị cáo Sùng Văn H) phải bồi thường cho bị hại Sùng Thị Hoa L tổng số tiền là 42.260.000 đồng (Bốn mươi H triệu H trăm sáu mươi nghìn đồng).
Xác nhận ông Sùng Seo P đã bồi thường 4.260.000 đồng (Bốn triệu H trăm sáu trăm nghìn đồng). Ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G tiếp tục phải bồi thường cho bị hại Sùng Thị Hoa L số tiền là: 38.000.000 đồng (Ba mươi tám triệu đồng chẵn).
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 dao bằng kim loại màu xanh - đen, tổng chiều dài của dao là 40cm, thân dao dài 28 cm, chỗ rộng nhất có kích thước 6,5 cm, mũi bằng, có một lưỡi sắc, chuôi dao bằng kim loại quấn thành hình trụ có kích thước 12 cm, thân dao khắc chữ 555 dao cũ đã qua sử dụng.
- 01 dao bằng kim loại, cán bằng gỗ, loại dao nhọn, có 01 lưỡi sắc, tổng chiều dài 20cm, có kích thước thân dao là 11cm, P lưỡi dao rộng nhất 03 cm, thân dao có khắc chữ H.THẠCH, dao cũ đã qua sử dụng.
- 01 dây vải màu đỏ, loại dây khăn quàng đỏ có chiều dài 1,1m, điểm rộng nhất có kích thước 25cm, dây cũ, đã qua sử dụng.
Trả lại cho chị Thào Thị Tùng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đỏ mận, có ốp bằng nhựa màu trắng, đã qua sử dụng, kèm theo 02 sim lắp trong điện thoại.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 54 ngày 20/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai với Cục thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án:
Buộc bị cáo Sùng Văn H phải chịu 200.000đ (H trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Ông Sùng Seo P, bà Thào Thị G phải chịu 1.900.000đ (Một triệu chín trăm ngàn đồng chẵn) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”
Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 43/2021/HS-ST
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về