Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 159/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM- TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 159/2021/HS-ST NGÀY 01/11/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 01 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 169/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 187/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1) CHÍM A T, (Tên gọi khác: Không) sinh năm 1984 tại Đồng Nai. HKTT và trú tại: Ấp T, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Hoa. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Phật. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Chím Phát S và bà Lù Sắt M. Có vợ Lý Mỹ D, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị giam giữ từ ngày 08/02/2021. Có mặt.

2) LÊ THỊ HẰNG NG, (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1979 tại Hà Tĩnh. HKTT và trú tại: Tổ dân phố 2, phường Đạ, Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Giới tính: Nữ. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ học vấn: 5/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Lê Thanh X và bà Nguyễn Thị Bích L. Có chồng: Đào Phi V, sinh năm 1982 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị giam giữ từ ngày 08/02/2021. Có mặt.

* Bị hại: Cháu Võ Thị Th, sinh ngày: 25/02/2008 Người đại diện theo pháp luật cho cháu Th: Bà Trần Thị Th, sinh năm 1963. Trú tại: Tổ 3, ấp T, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Bùi Thị Mai – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 5/2020, cháu Võ Thị Th (sinh ngày 25/02/2008) bỏ nhà đi làm thuê tại tỉnh Long An và có quen biết với cháu Lê Thị Khánh H, sinh năm 2008 (Là con của Lê Thị Hằng Ng). Sau đó, cháu H rủ cháu Th về ở cùng phòng trọ với Ng tại xã Bàu Hàm, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Cháu Th nhận Ng làm mẹ nuôi và cùng đi bán dâm với Ng.

Khoảng 21 giờ một ngày cuối tháng 11/2020, Chím A T cùng với Vòng Mồng S Sinh năm 1984, TSần Cún M Sinh năm 1985 (Cùng trú tại xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) và một người bạn của M (Không rõ nhân thân lai lịch) đến quán Karaoke “Hội Ngộ” ở ấp T, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai do anh Nguyễn Duy L làm chủ để hát karaoke. Tại đây, T nói anh L gọi nhân viên vào phục vụ hát chung thì anh L gọi điện thoại cho Ng đến quán để phục vụ. Khoảng 15 phút sau, Ng chở cháu Th đến quán và vào phòng của T đang hát. T cùng với Ng, cháu Th và bạn của T hát đến khoảng 00 giờ thì nghỉ. Lúc này, T thỏa thuận với Ng về việc mua bán dâm với giá 1.000.000 đồng thì được Ng đồng ý. T và Ng rủ cháu Th và Vòng Mồng S cùng qua nhà nghỉ “HHH” ở ấp T, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai do ông Nguyễn Văn H làm chủ thuê 02 phòng nghỉ, còn TSần Cún M và người bạn của M thì đi về. T và Ng vào phòng số 04 quan hệ với nhau 02 lần, S và cháu Th vào phòng số 06. Đến khoảng 08 giờ ngày hôm sau, T đi qua phòng số 06 tìm S thì cháu Th nói sau khi giao cấu với cháu Th thì S đã bỏ về và chưa trả tiền mua dâm cho cháu Th. Lúc này, T đi về phòng thì cháu Th đi qua đòi T phải trả tiền thay cho S nhưng T không đồng ý thì giữa T với Ng và cháu Th xảy ra tranh cãi. Lúc này T nảy sinh ý định giao cấu với cháu Th nên T đã nói với Ng và cháu Th cho T giao cấu với cháu Th thì T trả tiền thay cho S thì được Ng và cháu Th đồng ý. Cháu Th nói Ng đi ra khỏi phòng số 04 để T và cháu Th quan hệ tình dục với nhau. T và cháu Th tự cởi quần áo và lên giường nằm. T dùng miệng hôn vào vào vú, dùng tay sờ vú và âm hộ của cháu Th. T nằm đè lên người cháu Th và cầm dương vật của T đưa vào âm hộ của cháu Th để quan hệ tình dục nhưng do dương vật của T không cương cứng nên T không giao cấu với cháu Th được. Sau đó, T mặc quần áo và trả cho cháu Th số tiền 1.500.000 đồng rồi đi về, khoảng 20 phút sau Ng quay lại nhà nghỉ và chở cháu Th đi về.

Đến ngày 06/02/2021, trong quá trình làm việc tại Công an phường Long Bình, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Do trước đó giữa cháu Th và Ng có xảy ra mâu thuẫn đánh nhau tại phường Long Bình) thì cháu Th đã tố cáo Ng có hành vi dụ dỗ, ép buộc cháu Th đi bán dâm nên Công an phường Long Bình, Tp. Biên Hòa đã tiếp nhận và chuyển tin báo cho Công an xã Sông Thao, huyện Trảng Bom. Cùng ngày, Công an xã Sông Thao đã chuyển toàn bộ hồ sơ cho Công an huyện Trảng Bom để thụ lý điều tra theo thẩm quyền (Bút lục số: 64-67,95- 123,131-156,168-208).

Tại Bản kết luận pháp y về tình dục số 0137/TD/2021 ngày 09/02/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Đồng Nai kết luận: “Màng trinh hình vành khăn, đường kính lỗ trinh 1,3cm. Màng trinh rách cũ vị trí 02 giờ, bờ mép vết rách không phù nề, không xung huyết, không chảy máu” (Bút lục số: 161,162).

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Chím A T và Lê Thị Hằng Ng về các tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” và “Không tố giác tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 142 và khoản 1 Điều 390 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra ban đầu T và Ng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Nhưng sau đó T chỉ thừa nhận hành vi cởi quần, áo của T và cháu Th; có hành vi hôn, sờ vào bộ phận sinh dục của cháu Th; khi thực hiện việc giao cấu thì do dương vật không cương cứng nên không đưa dương vật sâu vào âm hộ cháu Th.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 47T1 – 128.55 (Bút lục số: 68).

Về xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 47T1 – 128.55 là của bị can Lê Thị Hằng Ng không liên quan đến việc phạm tội. Ngày 25/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Lê Thị Hằng Ng theo quy định (Bút lục số: 250,251).

Về dân sự: Gia đình Chím A T và Lê Thị Hằng Ng đã tự nguyện bồi thường cho cháu Th số tiền 8.000.000 đồng (trong đó gia đình bị cáo T bồi thường 5.000.000 đồng; gia đình bị cáo Ng bồi thường 3.000.000 đồng). Gia đình cháu Th đã nhận số tiền trên và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can Chím A T và bị can Lê Thị Hằng Ng (Bút lục số: 163-166).

Tại bản Cáo trạng số: 176/CT/VKS-TB ngày 14 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố bị cáo: Chím A T về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015 . Bị cáo Lê Thị Hằng Ng về tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo: Chím A T và Lê Thị Hằng Ng. Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo Ng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo T, trong quá trình điều tra bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và bồi thường cho bị hại nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo T và đề nghị xử phạt bị cáo: Chím A T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; bị cáo Lê Thị Hằng Ng từ 09 tháng đến 14 tháng tù. Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Chím A T không thừa nhận có hành vi giao cấu với cháu Võ Thị Th, tuy nhiên tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận như sau:

+ Lời khai tại bút lục số 99-100, T khai: “Tôi có cầm dương vật của tôi đưa vào âm hộ của Th, nhưng do dương vật không cương cứng lên được Th kêu đau bên hông, nên tôi không giao cấu với Th được nữa” + Tại bản tự khai ngày 07/02/2021 – BL 96, T khai: “Tôi nói không được chơi sao trả tiền, tôi trả tiền cũng được nhưng phải cho tôi quan hệ tình dục với Th, sau đó bà Ng và Th đồng ý, Ng đi ra ngoài sau đó tôi đến đóng cửa lại, quan hệ tình dục với Th khoảng 3 phút nhưng không suất tinh, khi đó tôi mặc đồ trả tiền cho Th, tôi không biết Th chưa đủ tuổi khi quan hệ tình dục với tôi” (Bản tự khai ngày 07/02/2021 – BL 96);

+ Lời khai ngày 07/02/2021 tại công an xã Sông Thao – ( BL 99,100), T khai: “Tôi có cầm dương vật lúc tôi đưa vào âm hộ của M, nhưng do dương vật không cương cứng lên được, khi tôi đè lên người Th… Th kêu đau bên hông nên tôi không giao cấu với Th được nữa” . Lời khai này phù hợp với lời khai của cháu Võ Thị Th tại bút lục số 168-188, Th khai: “Th đồng ý cho T giao cấu, Th và T tự cởi quần áo rồi nằm lên giường, T dùng tay sờ vào ngực và bộ phận sinh dục của Th sau đó T nằm đè lên người và cầm dương vật của T đưa vào âm hộ của Th để giao cấu”.

+ Lời khai tại Cơ quan Điều tra công an huyện Trảng Bom ngày 07/02/2021 – BL 101,102), T khai: “Tôi nói với Ng là tôi trả tiền cũng được nhưng phải cho tôi quan hệ tình dục với Th, Ng và Th đồng ý sau đó Ng bỏ đi ra ngoài, tôi đóng cửa lại thì thấy Th đã cởi đồ nằm trên giường, tôi cởi quần áo tôi ra, tôi nằm lên giường dùng tay sờ ngực, vú của Th, tôi dùng miệng hôn vú của Th và dùng tay sờ âm hộ của Th khi dương vật của tôi cương cứng thì tôi dùng tay đưa dương vật vào trong âm hộ của Th quan hệ tình dục, quan hệ được khoảng 2 phút thì không quan hệ nữa và mặc quần áo vào”.

+ Biên bản ghi lời khai của Viện kiểm sát ngày 08/2/2021 – BL 103,104) T khai: “Tôi hỏi bà Ng là cho tôi quan hệ với Th một cái thì tôi trả tiền, bà Ng với Th đồng ý sau đó bà Ng đi ra ngoài để tôi với Th ở trong phòng quan hệ với nhau. Tại phòng trọ Th tự cởi quần áo ra, tôi dùng tay sờ vú và âm hộ của Th, tôi dùng tay cầm dương vật đưa vào âm hộ của Th nhưng do dương vật của tôi không cương cứng được nên tôi không giao cấu được với Th” + Lời khai ngày 16/2/2021 tại Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom (BL 109,110), T khai: “Sau khi nghe tôi nói thì Ng và Th đồng ý để tôi giao cấu với Th, lúc đó Ng biết ý đã đi ra ngoài còn tôi và Th ở lại phòng số 4 và tự cởi quần áo ra không ai cởi cho ai. Tôi dùng tay phải sờ vào bộ phận sinh dục và vú của Th khoảng 1 đến 2 phút, tôi đưa dương vật vào âm hộ của Th nhưng dương vật không cương cứng lên được do trong đêm và sáng cùng ngày đã quan hệ với Ng, lúc đó thì tôi dừng việc giao cấu với Th” + Các bản tự khai, biên bản ghi lời khai và biên bản hỏi cung của bị cáo Lê Thị Hằng Ng (Bút lục số 131-156). Bị cáo Ng khai nhận tại thời điểm xảy ra vụ việc thì bị cáo Ng biết cháu Th chưa đủ 13 tuổi, khi bị cáo T hỏi muốn được giao cấu với cháu Th thì bị cáo Ng đồng ý và đi ra ngoài để cho bị cáo T ở lại phòng số 4, thực hiện hành vi giao cấu với cháu Th, bị cáo Ng không có hành vi ngăn cản cũng như tố cáo hành vi của bị cáo T đến cơ quan chức năng.

Tại phiên tòa bị cáo T không thừa nhận có hành vi giao cấu với cháu Th và cho rằng lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là do bị cáo bị Điều tra viên ép phải ký và do tinh thần lúc này bị hoang mang, sợ. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, Điều tra viên cũng như Kiểm sát viên đã giải thích cho bị cáo được quyền khiếu nại, tố cáo hành vi của các Điều tra viên, Kiểm sát viên ép buộc bị cáo phải ghi và ký trái với ý chí của mình nhưng bị cáo T không thực hiện quyền này và có đơn tường trình với nội dung không tố cáo và gửi Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra xem xét (BL số 121). Còn việc bị cáo cho rằng mình bị hoang mang trong quá trình điều tra thì thấy, việc điều tra được tiến hành lấy lời khai vào nhiều buổi làm việc khác nhau, trước khi tiến hành lấy lời khai đều hỏi về sức khỏe và bị cáo khai nhận sức khỏe tốt, đủ minh mẫn tỉnh táo để làm việc. Do đó, việc bị cáo khai bị đánh đập, ép buộc phải ký và tinh thần hoang mang trong quá trình làm việc là không có căn cứ.

+ Tuy nhiên, sau khi đại diện VKS trình bày lời buộc tội, bị cáo Chím A T đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị và không có ý kiến tranh luận gì. Đồng thời qua các T liệu, chứng cứ, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cháu Võ Thị Th và phù hợp với lời khai của những người làm chứng khác, do đó có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng cuối tháng 11/2020 tại phòng số 4 nhà nghỉ “HHH” thuộc ấp Tân Việt, xã Bàu Hàm, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Chím A T đã có hành vi giao cấu với cháu Võ Thị Th khi cháu Th mới 12 tuổi 9 tháng.

Như vậy, hành vi của Chím A T đã phạm vào tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

+ Lê Thị Hằng Ng biết rõ cháu Th chưa đủ 13 tuổi, khi bị cáo T hỏi muốn được giao cấu với cháu Th thì bị cáo Ng đồng ý và đi ra ngoài để cho bị cáo T ở lại phòng số 4 thực hiện hành vi giao cấu với cháu Th, bị cáo Ng không có hành vi ngăn cản cũng như tố cáo hành vi của bị cáo T đến cơ quan chức năng. Đến khi cơ quan công an phát hiện xử lý thì Ng mới khai nhận sự việc. Do đó hành vi của Lê Thị Hằng Ng đã phạm vào tội “Không tố giác tội phạm” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phậm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, đây là khách thể quan trọng được pháp luật và nhà nước bảo vệ, do đó cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, sống tuân thủ pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo là những người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức được tính nguy hiểm do hành vi phạm tội của mình gây ra nhưng do ham muốn nhất thời của bản thân cộng với ý thức coi thường pháp luật, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần có mức hình phạt tương xứng cho các bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có nhân thân tốt vì chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra các bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và bồi thường cho người bị hại nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo T đang phải cấp dưỡng để nuôi con nhỏ, bị cáo Ng các con còn nhỏ, có 01 con bị bệnh hiểm nghèo, do đó áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo T cũng đủ mức để răng đe, giáo dục đối với bị cáo. Bị cáo Ng đã bị tạm giam 08 tháng 23 ngày, thời gian tạm giam cũng đủ răn đe giáo dục đối với bị cáo, do đó hội đồng xét xử cho bị cáo mức án bằng thời gian đã bị tạm giam tạo điều kiện cho bị cáo chăm sóc con nhỏ thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Đối với hành vi mua, bán dâm của Chím A T và Lê Thị Hằng Ng với nhau, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom ra Quyết định xử phạt hành chính.

[6] Đối với Vòng Mồng S, không thừa nhận có hành vi giao cấu với cháu Th và ngoài lời khai của cháu Th thì không có T liệu chứng cứ nào khác để chứng minh do đó chưa có đủ cơ sở để xử lý nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[7] Đối với các đối tượng tên là Sáng, Sáng Nùng, Sáu, Tuấn, Nhì, Hoàng, Phi, Hùng là các đối tượng mà cháu Th khai đã từng giao cấu với cháu Th, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Đối với Nguyễn Duy L và Nguyễn Văn H, không biết việc Chím A T có hành vi giao cấu với cháu Th nên không có căn cứ để xử lý.

[9] Xét đề nghị nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom thì thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[10] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 142; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) + Tuyên bố bị cáo: Chím A T phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

+ Xử phạt bị cáo Chím A T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2021.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 390; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) + Tuyên bố bị cáo: Lê Thị Hằng Ng phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

+ Xử phạt bị cáo Lê Thị Hằng Ng 08 (tám) tháng 23 (hai mươi ba) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/02/2021;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả tự do Ngy tại phiên tòa cho bị cáo Lê Thị Hằng Ng nếu bị cáo không bị giam giữ về 01 tội phạm khác.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Chím A T, Lê Thị Hằng Ng mỗi người đều phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo Chím A T, Lê Thị Hằng Ng, trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
  • Tên bản án:
    Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 159/2021/HS-ST
  • Số hiệu:
    159/2021/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    01/11/2021
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 159/2021/HS-ST

Số hiệu:159/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về