Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 139/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ A

BẢN ÁN 139/2022/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ A xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 142/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo.

Họ tên: Lô Văn L; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 12 tháng 6 năm 1984 tại huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản M, xã Bắc S, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Con ông: Lô Văn X và bà Lô Thị X; Bị cáo có vợ: Trương Thị T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20 tháng 4 năm 2022 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư: Nguyễn Huy Kh; Nơi công tác Văn phòng luật sư Huy Kh thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ A (Có mặt).

- Bị hại: Cháu Lô Thị Minh Ng; Sinh ngày 09/11/2006; Địa chỉ: Bản M, xã Bắc S, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A. (Có mặt).

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Trương Thị V; Địa chỉ: Bản M, xã Bắc S, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A (Có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Tạ Thị A: Trợ giúp viên, công tác tại Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ A (Có mặt).

- Người làm chứng: Chị Hồ Thị Như Qu- Nơi công tác: Trường PTTH Qùy H III, tỉnh Nghệ A (Có mặt).

Địa chỉ: Khối II, thị trấn Qùy H, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A.

Đại diện nhà trường nơi bị hại đAg học tập: Ông Hoàng Trung Th- Chức vụ: Phó Hiệu trưởng; Nơi công tác: Trường PTTH Qùy H III, tỉnh Nghệ A (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời giA từ tháng 9/2021 đến ngày 10/4/2022, tại nhà Ah Lô Văn H địa chỉ Bản M, xã Bắc S, huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A, Lô Văn L đã 03 (Ba) lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu Lô Thị Minh Ng sinh ngày 09/11/2006 cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 12 giờ một ngày cuối tháng 9/2021, sau khi đi uống rượu về Lô Văn L đi bộ đến nhà Ah Lô Văn H xin nước lọc uống. Thấy Cháu Ng đAg nằm ngủ trên giường một mình nên nảy sinh ý định giao cấu với cháu Ng. L đi lại và ngồi sát bên người cháu Ng dùng tay phải sờ vào vùng ngực cháu Ng làm cháu Ng tỉnh dậy rồi la hét nên L hôn vào môi chủa cháu Ng để không cho hét rồi vật ngữa cháu Ng ra, nằm đè lên người cháu Ng. L dùng chân trái, tay phải của mình giữ, gì chặt cháu Ng rồi dùng tay trái cởi quần đùi, quần lót cháu Ng xuống qua đầu gối, cởi quần của mình ra và cầm dương vật đã cương cứng đưa vào âm đạo của cháu Ng giao cấu được khoảng 03 phút thì xuất tinh trùng trong âm đạo cháu Ng. Giao cấu xong L dọa cháu Ng không được nói cho ai bết rồi đi về nhà.

Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ một ngày cuối tháng 10/2021 cũng như lần thứ nhất sau khi đi uống rượu về L đến nhà Ah H để xin nước uống thấy cháu Ng đAg nằm ngủ trên giường nên đi lại ngồi sát bên người cháu Ng dùng tay phải sờ vào người của cháu Ng, làm cháu tỉnh dậy hét rồi dùng chân đạp vào bụng của L. L liền nằm đè lên người cháu Ng, dùng tay phải của mình giữ chặt hai tay cháu Ng, lấy chân đè lên hai chân cháu Ng rồi cởi quần của cháu Ng qua đầu gối tiếp đến kéo quần của L rồi đưa dương vật đAg cương cứng vào âm đạo cháu Ng nhấp lên, xuống được khoảng 03 (Ba) phút thì xuất tinh trùng vào âm đạo của cháu Ng. Giao cấu xong L đi về nhà.

Lần thứ ba: Khoảng 12 giờ ngày 10/4/2022 như những lần trước sau khi uống rượu về L đến nhà Ah H để xin nước uống, thấy cháu Ng đAg ngồi trên sàn nhà xem điện thoại, L đi đến chỗ cháu Ng ngồi dùng hai tay ôm cháu Ng từ phía sau, sờ vào vùng ngực cháu Ng, cháu Ng sợ la hét kêu cứu và gỡ hai tay của L ra nhưng không được. L vật ngữa cháu Ng xuống sàn nhà dùng tay phải tì vào ngực và giữ chặt hai tay của cháu Ng, tay trái cởi quần cháu Ng qua đầu gối và cởi quần của L ra rồi đưa dương vật đAg cương cứng vào trong âm đạo của cháu Ng giao cấu được khoảng 04 phút thì cháu Ng dùng tay xô đẩy, dùng chân đạp vào người L nên L rút dương vật ra rồi bế cháu Ng lên chiếc giường gần đó thì cháu Ng vùng dậy bỏ chạy, L kéo và vật cháu Ng nằm ngữa xuống giường nằm đè lên, đưa dương vật đAg cương cúng vào trong âm đạo cháu Ng giao cấu được khoảng 03 phút thì xuất tinh. Sau khi giao cấu với cháu Ng xong, L đi về nhà.

Sau mỗi lần giao cấu với cháu Ng, L vẫn đến nhà Ah H (bố cháu Ng) chơi khi gặp cháu Ng, L nhìn "lườm” để cháu Ng sợ không giám nói sự việc với ai. Ngày 17/4/2022 cháu Ng đã nhắn tin cho cô giáo Hồ Thị Quỳnh Nh thì sự việc bị phát giác và mẹ cháu Ng là Trương Thị V đã tố cáo hành vi của L đến cơ quA điều tra. Ngày 22/4/2022 Lô Văn L đến cơ quA điều tra đầu thú.

Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 22 ngày 21/4/2022 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Nghệ A kết luận:

“- Trên cơ thể của Lô Thị Minh Ng hiện tại không có dấu vết tổn thương.

- Bộ phận sinh dục của Lô Thị Minh Ng không có dấu vết tổn thương” - Màng trinh hình viền, lỗ màng trinh giãn rộng, còn nguyên vẹn, chưa rách”.

Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 23 ngày 21/4/2022 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Nghệ A kết luận:

“Hiện tại không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo Lô Thị Minh Ng” Công văn số 84/TTPY ngày 29/4/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế Nghệ A biện luận kết quả giám định Pháp y về tình dục nói trên:

“ - ……………..

- Trong quA hệ tình dục cũng có những trường hợp không rách màng trinh. Những trường hợp không gây rách màng trinh, khi quA hệ tình dục: Dương vật nam giới không đủ lớn, Màng trinh của nữ giới dày, lỗ màng trinh rộng, có độ chun giãn tốt; Dương vật đưa vào âm đạo một cách dễ dàng nên không gây rách.

- Tại thời điểm giám định, màng trinh của Lô Thị Minh Nguyệt hình viền, lỗ màng trình giãn rộng, còn nguyên vẹn, chưa bị rách là phù hợp với khoa học. Nhiều trường hợp giao cấu từ 01 đến 03 lần màng trinh vẫn có thể còn nguyên vẹn, không bị rách do màng trinh của người phụ nữ đó dày, rộng, có độ chun giãn tốt và dương vật của người đàn ông đó có kích thước vừa phải không đủ lớn nên không gây rách màng trinh.” Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 177/TTPY, ngày 21/04/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ A, kết luận:

“Trên cơ thể Lô Thị Minh Ng hiện tại không có dấu vết tổn thương, không để lại di chứng.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 0% (không phân trăm).” Cáo trạng số 173/CT-VKS-P2 ngày 12/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ A truy tố bị cáo Lô Văn L về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm đ khoản 2 điều 142 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố của Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Điểm đ khoản 2 điều 142, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điều 58 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lô Văn L từ 14 năm đến 15 năm tù; Công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo không trAh luận gì về tội dAh, đều khoản mà kiểm sát viên đề nghị áp dụng nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nhận thức pháp luật của bị cáo đAg còn hạn chế, cư trú ở vùng kinh tế khó khăn, sau khi bị phát giác bị cáo đã đầu thú, tự nguyện bồi thường một phần trách nhiệm dân sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không có ý kiến gì trAh luận, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận về trách nhiệm dân sự giữa đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại không có ý kiến gì trAh luận bổ sung và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo và từ chối nhận lại quần, áo trAg phục đã thu giữ của cháu Ng là vật chứng vụ án.

Bị cáo không có ý kiến trAh luận và tự bào chữa bổ sung. Lời nói sau cùng trước khi hội đồng xét xử vào phòng nghị án bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, cơ quA Điều tra Công A và Viện kiểm sát nhân dân huyện Qùy H, tỉnh Nghệ A, điều tra viên, kiểm sát viên, Công A tỉnh Nghệ A, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ A, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng, đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quA, người tiến hành tố tụng, như vậy các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Việc thay đổi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Giai đoạn điều tra, truy tố người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là bà Nguyễn Thị Th trợ giúp viên công tác tại Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ A, nhưng tại giai đoạn chuẩn bị xét xử bà A bị bênh phải điều trị nên Trưởng Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 đã quyết định cử bà Tạ Thị A thay thế. Các thủ tục đăng ký người bào chữa đã thực hiện theo luật định và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng đều nhất ý nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ được thu thập theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời giA từ tháng 9/2021 đến ngày 10/4/2022 Lô Văn L đã dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn với cháu Lô Thị Minh Ng sinh ngày 09/11/2006 tổng 03 (Ba) lần. Tính đến lần giao cấu thứ nhất và lần giao cấu sau cùng cháu Lô Thị Minh Ng mới hơn 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi (15 tuổi 05 tháng 01 ngày). Hành vi của bị cáo đã thực hiện đối với cháu Lô Thị Minh Ng đã phạm vào tội: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân tỉnh Nghệ A truy tố bị cáo theo tội dAh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tính chất mức độ của tội phạm:

Bị cáo là người đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cố ý thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hành vi đó thể hiện sự băng hoại đạo đức của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân và sự phát triển bình thường của trẻ em mà pháp luật hình sự bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, nên cần phải xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời giA trong khoảng đền nghị của kiểm sát viên mới đủ rức răn đe, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

[4] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thái độ khai báo của bị cáo là thành khẩn, ăn năn hối cải, sau khi tội phạm bị phát giác bị cáo đã tự thú, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần cho bị hại, bố, mẹ, chú ruột của bị cáo là người có công với cách mạng nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa áp dụng các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt ở mức thấp nhất theo lời đề nghị của kiểm sát viên đối với bị cáo là thỏa đáng.

[5] Hình phạt bổ sung: Nghề nghiệp của bị cáo là lao động tự do nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất tinh thần, dAh dự, nhân phẩm, sức khỏe và các chi phí khác tổng số tiền là 78.600.000đ, đã bồi thường được 9.000.000đ, nay yêu cầu bồi thường tiếp số tiền còn lại là 68.600.000đ bị cáo đồng ý. Xét thấy sự thỏa thuận này không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xử lý vật chứng: Đại diện hợp pháp của bị hại và bị hại từ chối nhận lại quần, áo đã bị thu giữ phục vụ điều tra nên cần tiêu hủy vật chứng của vụ án gồm quần áo đã thu giữ của bị hại, bị cáo trong vụ án.

[8] Án phí và quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 142 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo: Lô Văn L phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 142, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lô Văn L 14 (Mười bốn) năm tù về tội: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 4 năm 2022.

- Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 592 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường tiếp cho bị hại cháu Lô Thị Minh Ng thông qua người đại diện hợp pháp là bà Trương Thị V số tiền: 68.600.000đ (Sáu mươi tám triệu, sáu trăm nghìn đồng).

- Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tiêu hủy vậy chứng là quần, áo thu giữ được từ vụ án. (Đặc điểm, số lượng và tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa Cơ quA cảnh sát điều tra tỉnh Nghệ A và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ A)

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lô Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 3.430.00 đ (Ba triệu, bốn trăm, ba mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quA thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo Lô Văn L, bị hại, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 139/2022/HS-ST

Số hiệu:139/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về