Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 108/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 108/2020/HS-PT NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 23/4/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 151/2020/TLPT-HS ngày 17/02/2020 do có kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân T và người đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lê Văn T1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Xuân T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1968 tại Nghệ An;

Nơi cư trú: Xóm N, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân L và bà Trần Thị Đ (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/8/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại không kháng cáo: Cháu Lê Bảo N1, sinh ngày 06/10/2013;

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại có kháng cáo: Ông Lê Văn T1 sinh năm 1983 và bà Nguyễn Thị H (là bố mẹ bị hại), ông T1 có mặt;

Đều trú tại: Xóm T, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An;

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hoàng Thị Hương L1, Luật sư Văn phòng luật sư Thành Đ1 và cộng sự, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt

* Người kháng cáo: Bị cáo Phạm Xuân T, người đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lê Văn T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 17/8/2019 Phạm Xuân T đến nhà ông Nguyễn Văn T2 ở xóm T, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An để ăn đám giỗ; sau khi ăn xong, khoảng 13 giờ 30 Phạm Xuân T đi bộ sang nhà chị Thái Thị T3. Tại đây, ngoài mẹ con chị T3 còn có Nguyễn Thị Khánh Q, Lê Bảo N1 đang chơi với nhau tại nhà chị T3; sau khi nói chuyện với chị T3 một lúc T đi ra khỏi phòng ngủ của chị T3, đồng thời gọi cháu N1 theo mình, cháu N1 chạy ra phía T đang đứng T liền bảo cháu N1 lại để mình cho tiền. Nói xong, T đi vào phòng vệ sinh nhà chị T3, cháu N1 cũng đi theo; khi T và cháu N1 vào phòng vệ sinh, T đóng cửa lại nhưng do khóa cửa nhà vệ sinh bị hỏng nên chỉ khép lại. Tại đây, bị cáo đã có hành vi tụt quần của cháu N1 xuống dùng tay sờ, mó, hôn vào bộ phận sinh dục của cháu, khi cháu N1 chống cự, né tránh thì T tụt quần của mình xuống trong tư thế quỳ ngối, tay trái chống vào bức tường phía sau lưng cháu N1, tay phải cầm dương vật dí vào âm hộ cháu N1; thấy vậy cháu N1 kéo quần lên và khóc, sợ bị phát hiện nên Phạm Xuân T kéo quần mình lên, mở cửa chạy ra ngoài và đi về theo hướng cửa sau nhà chị T3. Cháu N1 sau đó đã kể lại sự việc cho các cháu Nguyễn Thị Khánh Q, Nguyễn Thị Khánh V biết. Đến 17 giờ 15 phút ngày 17/8/2019, ông Lê Văn T1 biết được sự việc đã đến Công an xã C trình báo sự việc; đến 19 giờ 10 phút cùng ngày, Phạm Xuân T đã đến Công an xã C đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tình dục số 36/TD ngày 23/8/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Nghệ An kết luận: Trên cơ thể cháu Lê Bảo N1 không có dấu vết tổn thương; màng trinh hình viền chưa bị rách, còn nguyên vẹn.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HS-ST, ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định: Áp dụng điểm c khoản 3 điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự;

xử phạt bị cáo Phạm Xuân T 15 năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”;

thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 17/8/2019 Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/01/2020 đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lê Văn T1 và ngày 14/01/2020 bị cáo Phạm Xuân T đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa, những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

- Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hình vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết. Tuy nhiên, với mức án 15 năm tù là quá cao; bởi vì, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; hôm đó cũng do bị cáo có uống rượu nên không làm chủ được bản thân, khi nghe cháu N1 khóc bị cáo đã dừng lại ngay nên hậu quả chưa xẩy ra; bị cáo đã đến gia đình cháu N1 xin lỗi, sau đó đến Công an tự thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; nay bị cáo rất ân hận, đã tác động với gia đình bồi thường cho gia đình bị hại được một số tiền; bố, mẹ và chú ruột bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Vì vậy, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện hợp pháp cho bị hại trình bày: Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An phạt bị cáo T về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” là đúng người, đúng tội; nhưng với mức án 15 năm tù là quá nặng. Bản thân bị cáo là người lương thiện, từ trước tới nay chưa sai phạm gì; hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn nên không được học hành, hiểu biết pháp luật hạn chế; hậu quả chưa xẩy ra nên bị hại không bị ảnh hưởng gì đến sức khỏe và tâm sinh lý, vẫn học hành sinh hoạt bình thường và mặc dù không có yêu cầu nhưng gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 5.000.000đ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp cho bị hại để giảm hình phạt cho bị cáo.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi xét xử đại diện hợp pháp cho bị hại thấy rằng với mức án đó là cao nên đã có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không biết chữ nên nhận thức pháp luật bị hạn chế, nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp cho bị hại, sửa Bản án sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Luật sư Hoàng Thị Hương L1 bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm:

Không tranh luận về tội danh của bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo phạm tội chưa đạt, sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an đầu thú và khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại, được gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có ông nội và bố là người có công với nước để chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt và cho bị cáo hưởng mức án đầu khung hình phạt liền kề.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Xuân T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại và những người làm chứng và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 30 ngày 17/8/2019 tại nhà của chị Thái Thị T3 thuộc xóm T, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Phạm Xuân T đã dụ dỗ và có hành vi giao cấu trái ý muốn với cháu Lê Bảo N1 khi cháu mới 05 năm 10 tháng 11 ngày tuổi. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội danh trên theo điểm c khoản 3 Điều 142 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan; Luật sư cho rằng bị cáo phạm tội chưa đạt là không có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân T cũng như đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Lê Văn T1, Hội đồng xét xử thấy: Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra; đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có nhân thân tốt, từ trước tới nay chưa có vi phạm gì bị xử lý; sau khi phạm tội đã đầu thú; bị cáo đã tác động với gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; bị cáo có bố là người có công được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, ông nội được tặng Bằng khen trong cuộc kháng chiến chống pháp; gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; từ đó áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm đại diện hợp pháp cho bị hại thấy với mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là cao nên có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp cho bị hại cho rằng mặc dù bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra hậu quả gì lớn, cụ thể là cháu Lê Bảo N1 không bị ảnh hưởng gì đến sức khỏe và tâm sinh lý, vẫn đi học và sinh hoạt bình thường nên tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị hại, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội cũng như Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị hại, sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

[3] Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại được chấp nhận kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân T và ông Lê Văn T1 là người đại diện hợp pháp cho bị hại; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An;

Áp dụng điểm c khoản 3 điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Xuân T 13 (mười ba) năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (17/8/2019).

Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân T, ông Lê Văn T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 176/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 108/2020/HS-PT

Số hiệu:108/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về