Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Cà M (tên gọi khác: H), sinh năm: 1988 tại tỉnh Bến Tre. Nơi đăng ký thường trú: Số 141/5, ấp P, xã TP, huyện TP, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1966; vợ Nguyễn Thị Thùy N và có một con (đã chết); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 28/5/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Lê Thị Yến N, sinh ngày: 06/02/2009.

Nơi cư trú: Ấp THT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Ngô Thị Màu, sinh năm: 1969.

Nơi cư trú: Ấp THT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người giám hộ của bị hại:

Bà Lê Thị L, chức vụ: Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại:

Bà Nguyễn Thị P - Luật sự, Cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người làm chứng:

Bà Phan Thị Yến N, sinh năm: 1991.

Nơi cư trú: Ấp TA, xã MĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội Zalo, Đặng Cà M sử dụng tài khoản tên “LH” kết bạn với tài khoản tên “N” của Lê Thị Yến N để nhắn tin làm quen. Ngày 28/4/2021, sau khi nhắn tin qua lại, M hẹn gặp và rủ N đi chơi thì được N đồng ý. Vào chiều cùng ngày, M điều khiển xe môtô biển số 84B1-234.07 đến nhà rước và chở N đi mua trà sữa ở xã AD, huyện M, tỉnh Bến Tre. Sau đó, M chở N đến quán nước ở xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre để trò chuyện nhưng do quán nghỉ bán nên M tiếp tục chở N đi về hướng huyện TP, tỉnh Bến Tre. Khi đi ngang nhà nghỉ Yến N thuộc ấp TA, xã MĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre vào khoảng 19 giờ, M rủ N vào nhà nghỉ thì N đồng ý. Đến nhà nghỉ, M hỏi thuê phòng nghỉ theo giờ và được hướng dẫn vào phòng nghỉ số 02. Vào phòng, N lên giường nằm, M hút xong điếu thuốc lá thì lên giường, cả hai ôm hôn nhau rồi M thực hiện hành vi giao cấu với N cho đến khi xuất tinh trong âm đạo của N. Sau khi giao cấu xong, cả hai trả phòng đi về. Trên đường đưa N về nhà, M ghé quầy thuốc tây ở ấp THT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre mua 02 viên thuốc tránh thai đưa cho N đem về uống. Sau đó, cả hai tiếp tục nhắn tin qua lại, bà Ngô Thị M là mẹ ruột của N phát hiện nội dung tin nhắn trong điện thoại và nghi ngờ M đã thực hiện hành vi giao cấu với N nên lấy điện thoại N sử dụng giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bến Tre yêu cầu giải quyết. Đến ngày 11/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành kiểm tra điện thoại di động của N do bà Màu giao nộp thì M tiếp tục nhắn tin rủ N đi chơi. M điều khiển xe môtô biển số 84B1-234.07 đến đón N tại điểm hẹn thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra mời làm việc.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- Vật chứng do bà Ngô Thị Màu giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng, số IMEI 1: 358301/07/128254/5; số IMEI 2:

358302/07/128254/3 được gắn một thẻ sim.

- Vật chứng do Đặng Cà M giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh đen số IMEI 1: 862942051985430, số IMEI 2: 862942051985422, có gắn thẻ sim số 0973305173; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI:

356458/09/374142/9, IMEI: 356459/09/374142/7, không có gắn thẻ sim, có gắn 01 thẻ nhớ micro SD 2GB; 01 áo dài tay bằng vải màu xám đen (loại vải Jean) vị trí cổ áo có chữ “M” và có cụm từ “Teen Collection”; 01 quần dài bằng vải, màu đen đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 93cm; 01 quần lót màu đen, lưng màu xám có chữ “SHOCK DOCTOR” màu trắng.

- Vật chứng do Lê Thị Yến N giao nộp: 01 áo thun ngắn tay màu trắng, không có cổ áo, mặt trước áo có chữ “HAPPY”, “NO!”, “YES!”; 01 quần dài bằng vải màu vàng, đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 85cm, một mặt là lưng thun và mặt còn lại là vải cố định.

Tại Kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi xâm hại tình dục số: 146-521/TDTE ngày 13/5/2021 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Bến Tre kết luận Lê Thị Yến N: Màng trinh vị trí 09 giờ có dấu khuyết chưa đến chân màng trinh. Khẩu kính lỗ màng trinh 02cm. Tinh trùng: tìm không thấy. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Lê Thị Yến N theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế là 00%.

Tại Kết luận giám định số: 2839/C09B ngày 03/6/2021 của Phân Viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Không phát hiện thấy ADN của đối tượng Đặng Cà M trong mẫu dịch âm đạo của bị hại Lê Thị Yến N. Các dấu vết, vật chứng thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường (được ký hiệu từ A1 đến A8) đều có máu người, phân tích ADN được một kiểu gen nữ hoàn chỉnh và trùng với ADN của bị hại Lê Thị Yến N.

Tại Kết luận giám định số: 2832/C09B ngày 14/7/2021 của Phân Viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Phục hồi, trích xuất được: Toàn bộ dữ liệu trong điện thoại di động ký hiệu A1 (Lê Thị Yến N). Dữ liệu tin nhắn Zalo “LH” đăng ký bằng số điện thoại 0973305173 và tài khoản Zalo tên “N” ngày 11/5/2021 trong điện thoại di động ký hiệu A2 (Đặng Cà M). Dữ liệu trích xuất được lưu ra 01 thiết bị lưu trữ đĩa DVD-R gửi kèm theo kết luận giám định này. Không phục hồi, trích xuất được tin nhắn Zalo giữa tài khoản tên “N” và “LH” trong điện thoại di động ký hiệu A3 (Đặng Cà M).

Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSMCN ngày 13 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre để xét xử đối với bị cáo Đặng Cà M về “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đặng Cà M giữ nguyên lời khai như trong quá trình điều tra, truy tố và thừa nhận hành vi đã thực hiện theo nội dung bản cáo trạng, tại phiên tòa bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại bà Ngô Thị M, người giám hộ của bị hại bà Lê Thị L giữ nguyên lời khai như trong quá trình điều tra, tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt áp dụng cho bị cáo;

người làm chứng Phan Thị Yến N vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, cho rằng: Việc truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật nên bảo lưu toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Cà M (H) phạm “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 142; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Đặng Cà M từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về trách Nệm dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người giám hộ của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên ghi nhận.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả cho bị hại Lê Thị Yến N: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng, số IMEI 1: 358301/07/128254/5; số IMEI 2: 358302/07/128254/3 được gắn một thẻ sim; 01 áo thun ngắn tay màu trắng, không có cổ áo, mặt trước áo có chữ “HAPPY”, “NO!”, “YES!”; 01 quần dài bằng vải màu vàng, đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 85cm, một mặt là lưng thun và mặt còn lại là vải cố định.

Trả cho bị cáo Đặng Cà M: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh đen số IMEI 1: 862942051985430, số IMEI 2: 862942051985422, có gắn thẻ sim số 0973305173; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI: 356458/09/374142/9, IMEI: 356459/09/374142/7, không có gắn thẻ sim, có gắn 01 thẻ nhớ micro SD 2GB; 01 áo dài tay bằng vải màu xám đen (loại vải Jean) vị trí cổ áo có chữ “M” và có cụm từ “Teen Collection”; 01 quần dài bằng vải, màu đen đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 93cm; 01 quần lót màu đen, lưng màu xám có chữ “SHOCK DOCTOR” màu trắng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại Lê Thị Yến N là bà Nguyễn Thị P trình bày:

Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Cà M mà Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật nên không có ý kiến tranh luận.

Về trách Nệm dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người giám hộ của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Phía bị hại thống nhất với các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự và mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre đề nghị nên không có ý kiến tranh luận. Tại phiên tòa, người đại diện và người giám hộ của bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre để đưa ra mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người giám hộ của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị hại Lê Thị Yến N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, người làm chứng bà Phan Thị Yến N vắng mặt. Bị hại và người làm chứng đã có lời khai cụ thể, rõ ràng tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của bị hại và người làm chứng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng là phù hợp với quy định tại các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Bị cáo Đặng Cà M thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ để xác định: Vào khoảng 19 giờ ngày 28/4/2021, được sự đồng ý của Lê Thị Yến N, sinh ngày: 06/02/2009, Đặng Cà M đã một lần thực hiện hành vi giao cấu với Lê Thị Yến N tại phòng số 2 của nhà nghỉ trọ Yến N thuộc ấp TA, xã MĐ, huyện M, tỉnh Bến Tre. Tại thời điểm Đặng Cà M thực hiện hành vi giao cấu, Lê Thị Yến N là người dưới 13 tuổi.

Mặc dù, việc giao cấu được thực hiện có sự đồng tình của bị hại nhưng bị hại là người dưới 13 tuổi nên bị cáo phải bị xử lý về hành vi nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Cà M phạm “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp, đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của trẻ em. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách Nệm hình sự. Bị cáo biết rõ việc thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em sẽ gây nguy hiểm đến sự phát triển bình thường của trẻ nhưng bị cáo lợi dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của người bị hại khi tham gia vào các trang mạng xã hội cùng với sự thiếu quản lý, giáo dục từ phía gia đình người bị hại nên bị cáo đã dụ dỗ để thực hiện hành vi giao cấu với bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu về tâm sinh lý của mình. Mặc dù, việc giao cấu có sự đồng tình của bị hại nhưng hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, tạo dư luận xấu, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp và người giám hộ của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được áp dụng đối với bị cáo.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cũng như xét về nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích, đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và tạo tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách Nệm dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người giám hộ của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng, số IMEI 1: 358301/07/128254/5; số IMEI 2: 358302/07/128254/3 được gắn một thẻ sim; 01 áo thun ngắn tay màu trắng, không có cổ áo, mặt trước áo có chữ “HAPPY”, “NO!”, “YES!”; 01 quần dài bằng vải màu vàng, đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 85cm, một mặt là lưng thun và mặt còn lại là vải cố định. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu được nhận lại nên trả lại cho bị hại.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh đen số IMEI 1: 862942051985430, số IMEI 2: 862942051985422, có gắn thẻ sim số 0973305173; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI: 356458/09/374142/9, IMEI: 356459/09/374142/7, không có gắn thẻ sim, có gắn 01 thẻ nhớ micro SD 2GB; 01 áo dài tay bằng vải màu xám đen (loại vải Jean) vị trí cổ áo có chữ “M” và có cụm từ “Teen Collection”; 01 quần dài bằng vải, màu đen đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 93cm; 01 quần lót màu đen, lưng màu xám có chữ “SHOCK DOCTOR” màu trắng thuộc sở hữu của bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo yêu cầu được nhận lại nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về nghĩa vụ chịu tiền án phí:

Bị cáo Đặng Cà M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Đặng Cà M (H) phạm “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 142; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đặng Cà M 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/5/2021.

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả cho bị hại Lê Thị Yến N: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng, số IMEI 1: 358301/07/128254/5; số IMEI 2: 358302/07/128254/3 được gắn một thẻ sim; 01 áo thun ngắn tay màu trắng, không có cổ áo, mặt trước áo có chữ “HAPPY”, “NO!”, “YES!”; 01 quần dài bằng vải màu vàng, đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 85cm, một mặt là lưng thun và mặt còn lại là vải cố định.

Trả cho bị cáo Đặng Cà M: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh đen số IMEI 1: 862942051985430, số IMEI 2: 862942051985422, có gắn thẻ sim số 0973305173; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, số IMEI: 356458/09/374142/9, IMEI: 356459/09/374142/7, không có gắn thẻ sim, có gắn 01 thẻ nhớ micro SD 2GB; 01 áo dài tay bằng vải màu xám đen (loại vải Jean) vị trí cổ áo có chữ “M” và có cụm từ “Teen Collection”; 01 quần dài bằng vải, màu đen đo từ lưng quần đến cuối ống quần là 93cm; 01 quần lót màu đen, lưng màu xám có chữ “SHOCK DOCTOR” màu trắng.

Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19 tháng 01 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện M, tỉnh Bến Tre với Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre.

[3] Về nghĩa vụ chịu tiền án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Cà M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người giám hộ của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về