TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI HÀNH HẠ VỢ
Ngày 29 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phú Hựu, huyện C xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự thụ lý số: 54/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2022 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Văn C1; Tên gọi khác: không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày 18/5/1982, tại tỉnh Đ; Nơi thường trú: ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;Nghề nghiệp: không có; Trình độ học vấn: 5/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn B, sinh năm 1961(chết); Họ tên mẹ: Trần Thị C, sinh năm 1966; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; Con: có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2012; Anh, chị em ruột có 03 người, bị can là người thứ nhất; Tiền án: Không có; Tiền sự: 01 lần. Ngày 22/12/2021, bị Công an xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.250.000 đồng về hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên trong gia đình (chưa nộp phạt). Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 02/8/2022.(Có mặt)
Bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; trú tại: ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ. (có mặt)
Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 2003; trú tại: ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ. (có mặt)
2. Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1977; trú tại: ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ. (vắng mặt)
3. Bà Nguyễn Thị Mười S, sinh năm 1965; trú tại: trú tại: ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn C1 và chị Nguyễn Thị H cùng ngụ ấp Phú Bình, xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ là vợ chồng, kết hôn với nhau được 22 năm và có 04 người con chung. Vào năm 2017, chị H bắt đầu bị bệnh tiểu đường, viêm da tiếp xúc dị ứng, bệnh lý tăng huyết áp dần chuyển sang suy thận mãn, ảnh hưởng đến mắt bị mờ, không thấy đường. Từ đó, chị H không cho C1 ngủ chung, do nghi ngờ chị H có người đàn ông khác nên C1 thường xuyên uống rượu say về nhà la mắng và đánh chị H. Đến ngày 22/12/2021, C1 bị Công an xã Phú Hựu, huyện C, tỉnh Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.250.000 đồng về hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên trong gia đình, C1 chưa nộp phạt. Nhưng lại tiếp tục có hành vi đánh chị H, cụ thể:
Vào chiều ngày 04/6/2022, sau khi đã uống rượu, C1 về nhà tiếp tục uống rượu một mình, đến khoảng 23 giờ cùng ngày, C1 đi vệ sinh ở phía sau nhà. Sau khi đi vệ sinh xong, C1 đi ngang giường nơi chị H và con ruột là Nguyễn Văn K, sinh ngày 02/10/2012 đang ngủ. C1 cho rằng có người đang ôm chị H (thực tế không có ai ôm chị H) nên C1 giở mùng dùng hai tay nắm lại đánh vào vùng bụng của chị H khoảng 3 – 4 cái thì chị H la lên. Lúc này, Nguyễn Văn T, sinh năm 2003 là con ruột của C1 và chị H đang ngủ trong phòng chạy ra ôm can ngăn C1 lại và điện thoại trình báo Công an xã Phú Hựu đến giải quyết. Sau đó, thấy chị H nôn ói nên T đưa chị H đến Bệnh viện đa khoa Sa Đéc điều trị, bác sỹ thông báo chị H không bị thương tích gì nên T mua thuốc uống và đưa chị H về nhà. Sau khi làm việc thì C1 thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.
Tại Cáo trạng số: 52/CT-VKS-CT ngày 21/10/2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C1 về tội “Hành hạ vợ” theo điểm b khoản 1 Điều 185 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trong phần tranh luận giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị:
- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 185 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C1 về tội “Hành hạ vợ” với mức án từ 03 đến 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: không có.
Về xử lý vật chứng: không có.
Bị cáo Ki nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nói sau cùng bị cáo xác định đánh chị H là có lỗi, xin Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Qua điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Ki nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời Ki người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó có đủ cơ sở xác định: Nguyễn Văn C1 đã có tiền sự về hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên trong gia đình. Đến ngày 04/6/2022, sau khi uống rượu say, C1 nghi ngờ chị Nguyễn Thị H có người đàn ông khác nên C1 đã dùng hai tay nắm lại đánh vào vùng bụng của chị H 3 – 4 cái thì được Nguyễn Văn T can ngăn. Hành vi của Nguyễn Văn C1 đã xâm phạm trực tiếp đến thân thể, gây ảnh hưởng sức khỏe, tinh thần của chị H một cách trái pháp luật, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C1 có đủ yếu tố cấu thành tội “Hành hạ vợ”;
Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 185 Bộ luật Hình sự.
Tại điểm b khoản 1 Điều 185 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những T hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) .............................................
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
[3] Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, bị cáo nhận thức được hành hành hạ vợ là vi phạm pháp luật, Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến thuần phong mỹ tục trong quan hệ gia đình truyền thống, ngoài ra còn xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và tinh thần của con người mà chính là vợ của bị cáo, gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, do đó cần xử lý nghiêm nhằm ran đe và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn Ki báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, thuộc T hợp ít nghiêm trọng; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ đã viện dẫn. Phát biểu luận tội của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người đúng tội, đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo cũng thừa nhận hành vi của mình, không tranh luận, không bào chữa. Từ các phân tích trên cho thấy đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng tính mạng, sức khỏe của người khác, nhằm răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy căn cứ vào Điều 54 của Bộ luật hình sự xem xét áp dụng hình phạt đối với bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
Về trách nhiệm dân sự: không có. Về xử lý vật chứng: không có.
[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 185; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C1, phạm tội “Hành hạ vợ”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C1 04 (bốn) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Văn C1 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tỉnh Đ.
Bản án về tội hành hạ vợ số 59/2022/HS-ST
Số hiệu: | 59/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về