Bản án về tội giết người và tội cố ý gây thương tích số 653/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 653/2023/HS-PT NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 31 tháng 8 và 08 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B và trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 312/2023/TLPT-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023. Do có kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Ngọc T, Nguyễn Đình P; Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Viết Thanh H là ông Nguyễn Viết H1, bà Nguyễn Thị A, bà Phạm Thị Thanh H2 và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Bị cáo bị kháng nghị:

1/ A M (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1972, tại Campuchia; Nơi cư trú tại ấp D, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai; Nơi tạm trú tại Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; Dân tộc: Chăm; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Hồi giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: O (Chết) và bà: Thị Dâm (chết); Vợ: Thị Am N, có 07 con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam ngày 17/7/2020 (Có mặt).

Bị cáo bị kháng cáo và bị kháng nghị:

2/ Dương Thái L (Tên gọi khác: T1), sinh năm 1977, tại B; Nơi cư trú tại Thôn B, xã T, huyện H, B; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn N1 (Chết) và bà: Nguyễn Thị Y (chết); Vợ: Nguyễn Thị Ánh K có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Bị cáo có kháng cáo:

3/ Huỳnh Ngọc T (Tên gọi khác: Ba L1), sinh năm 1989, tại B; Nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn T, huyện H, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Văn T2 và bà: Hoàng Thị Kim L2 (chết); Vợ: Lê Thị Kim H3 có 02 con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10/12/2019, Huỳnh Ngọc T bị Công an thị trấn T, huyện H xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi đánh người khác; Ngày 10/3/2020, Huỳnh Ngọc T bị Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi đánh người khác.

Nhân thân: Ngày 17/3/2010, Huỳnh Ngọc T bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh B tuyên phạt 30 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”, đã xóa án tích; Ngày 04/8/2017, Huỳnh Ngọc T bị Công an thị trấn T, huyện H xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi cùng đồng bọn đánh người khác. Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Bị cáo có kháng cáo:

4/ Nguvễn Đình P (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1992, tại B; Nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn T, huyện H, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H4 và bà: Hồ Thị L3; Vợ: Mơ Tanh, có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Bị cáo bị kháng cáo:

5/ Dương Thái K1 (Tên gọi khác: Ú), sinh năm 1979, tại B; Nơi cư trú tại Thôn B, xã T, huyện H, B; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Văn N1 (Chết) và bà: Nguyễn Thị Y (chết); Vợ: Trịnh Thị N2, có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Đại diện hợp pháp cho người bị hại Nguyễn Viết Thanh H có kháng cáo:

1/ Ông Nguyễn Viết H1, sinh năm 1961;

2/ Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1962;

3/ Bà Phạm Thị Thanh H2, sinh năm 1990;

Cùng nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn T, huyện H, tỉnh B (Có mặt).

Những người bị hại không kháng cáo:

1/ Ông Phạm Minh T3, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện H, tỉnh B.

2/ Ông Hoàng Hải Đ, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện H, tỉnh B.

3/ Ông Thái Ngọc Đ1, sinh năm 1991; Nơi cư trú tại Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh B.

4/ Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1989; Nơi cư trú KP2, Thị trấn T, huyện H, tỉnh B, cũng là bị cáo trong vụ án này (Có mặt)

5/ Dương Thái L, sinh năm 1977; Nơi cư trú thôn B, xã T, huyện H, tỉnh B, cũng là bị cáo trong vụ án này (Có mặt)

6/ Dương Thái K1, sinh năm 1979; Nơi cư trú thôn B, xã T, huyện H, tỉnh B, cũng là bị cáo trong vụ án này (Có mặt).

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Thi An N3, sinh năm 1972; nơi cư trú tại Ấp D, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

2/ Ông Mai Trường T4, sinh năm 1987; nơi cư trú tại Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, vụ án có nội dung như sau:

Dương Thái L và Dương Thái K1, là hai anh em cùng cư trú thôn B, xã T, huyện H, tỉnh B, có lán trại khai thác cát tại thôn D, xã T, huyện H, tỉnh B. Phạm Minh T3 và Hoàng Hải Đ là những người làm công cho anh em L, K1.

Trước ngày 26/4/2020, Mai Trường T4 và một số thanh niên khác ở Thôn B, xã T, huyện H và anh em Dương Thái L, Dương Thái K1 có mâu thuẫn từ việc làm đường bê tông vào khu vực khai thác cát tại Thôn D, xã T. Khoảng 20 giờ ngày 25/4/2020, Dương Thái L và Phạm Minh T3 điều khiển xe ôtô đến nhà Mai Trường T4; tại đây giữa L và T4 xảy ra xô xát nhưng không gây ra thương tích. T3 sử dụng cây rựa dài khoảng 01m từ trên xe ôtô xuống để đánh T4 thì được can ngăn, L lấy cây rựa từ tay T3 chém vào Camera trước nhà T4 rồi cùng T3 lên xe ôtô bỏ đi. Sự việc trên đang được Công an xã T giải quyết thì khoảng 30 phút sau, Huỳnh Ngọc T là bạn của Mai Trường T4 gọi điện thoại di động gặp Dương Thái L và bảo L đến ngay Ngã ba Làng đê gặp T và T đe dọa sẽ đâm L.

Khoảng 15 giờ ngày 26/4/2020, Huỳnh Ngọc T rủ Nguyễn Viết Thanh H, Nguyễn Đình P và Thái Ngọc Đ1, tập trung tại kho chứa mì “Quyền Thuyền” của gia đình Mai Trường T4. Nguyễn Viết Thanh H vào kho mì lấy ra 05 cây dao ra đưa cho Thái Ngọc Đ1, Nguyễn Đình P và Huỳnh Ngọc T mỗi người 01 cây, Nguyễn Viết Thanh H giữ 02 cây, riêng Nguyễn Đình P còn cất giấu trong người 01 cây dao bấm khác, rồi sử dụng 02 xe môtô chở nhau đến nhà Phạm Minh T3 để tìm T3.

Do thời gian này, Phạm Minh T3 và Hoàng Hải Đ đang tưới nước bảo dưỡng đoạn đường bê tông vừa làm xong ở đầu đường vào Lán trại khai thác cát nên nhóm của Huỳnh Ngọc T không gặp, thì xin số điện thoại di động để liên hệ và biết được Phạm Minh T3 đang ở trong khu vực Lán trại. Thấy nhóm của Huỳnh Ngọc T gồm 04 người chở nhau trên 02 xe mô tô chạy đến Ngã ba, nơi T3 và Đ đang tưới nước và rẽ vào hướng Lán trại, sợ nhóm người này vào đánh Dương Thái L và Dương Thái K1 nên Phạm Minh T3 điện thoại cho Dương Thái K1 để thông báo, đồng thời dừng công việc để Hoàng Hải Đ chở vào Lán trại. Thấy nhóm của Huỳnh Ngọc T chở nhau vào dừng trước Lán trại khoảng 20m, P đứng bên ngoài, T, H và Đ1 vào bên trong Lán trại thì Dương Thái L hỏi: “Tụi mày vào đây làm gì muốn gây sự hả”, còn Dương Thái K1 điện thoại báo cho Công an xã T để vào giải quyết, sau đó sử dụng điện thoại di động để ghi lại hình ảnh của nhóm này khi cãi nhau với Dương Thái L. Khi nhóm của T quay ra xe, L đi theo sau thì bị H dùng dao chém một nhát trúng cánh tay trái.

Thấy vậy, Dương Thái K1 điều khiển xe ôtô biển số 86H-xxxx lao vào nhóm của Nguyễn Viết Thanh H để giải vây cho Dương Thái L thì Nguyễn Đình P điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Viết Thanh H và Thái Ngọc Đ1 chở Huỳnh Ngọc T chạy ngược trở ra, Dương Thái L cũng lên xe ô tô cho Dương Thái K1 điều khiển chạy theo phía sau. Khi xe chạy ra khỏi Lán trại khoảng 20m, thấy Hoàng Hải Đ chở Phạm Minh T3 chạy ngược chiều vào, sợ bị nhóm của Huỳnh Ngọc T đánh nên Dương Thái K1 tăng tốc cho xe vượt lên phía trước.

Khi xe ô tô và 02 xe mô tô của nhóm Huỳnh Ngọc T chạy gần song song nhau, thì Hoàng Hải Đ chở Phạm Minh T3 chạy đến gần đối diện với xe mô tô do Nguyễn Đình P điều khiển bên mép đường phải hướng vào Lán trại. Dương Thái K1 sợ xe ô tô tung vào xe mô tô do Hoàng Hải Đ điều khiển đang chạy đến nên lấn sang phần đường bên phải nên chèn ép xe mô tô do Thái Ngọc Đ1 điều khiển chở Huỳnh Ngọc T bị té ngã vào mép đường phải, Đ1 hoảng sợ nhảy lên bờ đất bỏ chạy đi nơi khác không tham gia đánh nhau. Khi mô tô do Đ điều khiển và xe mô tô do P điều khiển chạy ngược chiều và gần ngang nhau, Nguyễn Viết Thanh H ngồi sau dùng dao đưa lên, Hoàng Hải Đ sợ bị chém nên tránh né làm cho xe bị mất thăng bàng ngã ra mép đường, T3 đứng dậy bỏ chạy lên bờ đất bên phải thì bị T từ phía sau dùng dao chém một nhát trúng vào vùng lưng. Bị chém, T3 chạy vào Lán trại lấy 01 cây rựa quay ra, L và Đ cũng đi vào hướng Lán trại. Dương Thái K1 ngồi trên xe ô tô thì bị nhóm của T dùng đá ném, dùng dao chém vào xe ô tô làm vỡ kính và K1 bị chém một nhát trúng vào vai trái (không xác định rỗ người chém). Thấy T3 cầm rựa từ Lán trại chạy ra, nhóm của T còn lại 3 người, gồm: T, H và P, điều khiển xe mô tô chở nhau bỏ chạy.

Dương Thái K1 điều khiển xe ô tô chạy ra Ngã ba gần đó rồi chạy rẽ vào đường đất khoảng 700m rồi dừng lại điện thoại báo cho Công an xã T vào giải quyết. Sau đó, K1 điều khiển xe quay ra lại Ngã ba để Đ lên xe ngồi ở ghế phụ, L và T3 cũng lên xe ngồi ở hàng ghế sau. Riêng, nhóm của Huỳnh Ngọc T điều khiển xe chạy ra lại một đoạn khoảng 300m, gần Ngã ba bên phải hướng từ Lán trại ra dừng lại, dùng 02 xe mô tô làm vật cản hình chữ V chắn ngang đường, cầm hung khí đứng ở gần đó. Khi Dương Thái K1 điều khiển xe ô tô chở L, T3 và Đ chạy ra hướng đường Q, thấy 02 xe mô tô chán ngang đường, K1 điều khiển xe ô tô, biển số 86H-xxxx tung vào xe mô tô, biển số 86B7-xxxxx phần đầu xe ô tô bên trái tung, chà đẩy xe mô tô biển số 86B7-xxxxx vào mép đường trái rồi dừng lại, xe bị tắt máy. Phạm Minh T3 cầm rựa xuống xe trước thì bị Nguyễn Viết Thanh H và Nguyễn Đình P cầm dao xông vào đánh làm T3 phải tựa lưng vào hông xe ô tô bên phải và lùi ra hướng sau xe ô tô chống đỡ. Hoàng Hải Đ xuống xe chạy đến chỗ T3 thì bị Nguyễn Đình P cầm dao bấm rượt đuổi chạy vào dám mì xen lẫn keo tràm khoảng 20m. Dương Thái L xuống xe bị Huỳnh Ngọc T cầm dao xông vào nên L lượm 01 đoạn cây đánh lại, T xông vào dùng dao đâm sượt nách trái của L thì L dùng tay trái kẹp được tay cầm dao của T nên cả hai giằng co nhau. Dương Thái K1 xuống xe, thấy L và T đang giằng co nên xông vào ôm T từ phía sau vật ngã xuống đất, T nằm ngửa trên người K1, L nằm sấp trên người T. Dương Thái L tước được con dao từ tay T và dùng dao này chém nhiều nhát vào 02 chân của T gây thương tích cho đến khi T không còn sức chống cự.

Ngay trước thời điểm trên, A M (ở ấp D, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai) là người có chòi rẫy gần Lán trại của anh em Dương Thái L, Dương Thái K1 đi chở nước cho D uống. Khi đến trước Lán trại thì nghe tiếng kêu la và thấy có bụi đường bay lên ở phía ngoài đường vào lán trại, nên A M điều khiển xe mô tô chạy ra gần đến xe ô tô đang dừng và thấy có đông người đang sử dụng hung khí đánh nhau nên dừng xe. Thấy A M đến, Nguyễn Viết Thanh H dùng hai tay cầm hai cây dao chém trúng bàn tay trái của A M nên A M chạy lại nơi để xe mô tô lấy 01 cây rựa quay lại đánh nhau với H. A M dùng rựa chém H trúng dưới gối trái chân phải, đỉnh đầu và cánh tay phải làm H gục tại chỗ. Sau đó, A M cầm rựa điều khiển xe chạy vào Lán trại, vứt rựa, để xe mô tô tại đây rồi đi về chòi của mình.

Cùng thời điểm A M đánh nhau với H; K1 ôm vật T và L dùng dao chém vào chân T, thì Hoàng Hải Đ khi bỏ chạy bị té ngã, Nguyễn Đình P xông đến và dùng dao bấm đâm vào đùi trái của Đ gây thương tích. Khi Phạm Minh T3 chạy đến hỗ trợ cho Đ thì bị P dùng dao đâm sượt vào vùng ngực, T3 dùng rựa khống chế P lấy được dao đưa cho Đ giữ rồi dẫn P đến nơi T bị thương ngồi ở khu vực Ngã ba. Thấy Nguyễn Viết Thanh H bị thương nặng, chảy nhiều máu nên T3 đến dùng áo ga rô cho H. Lúc này, từ hướng đầu đường có nhiều xe mô tô chạy vào nên L, K1, T3 và Đ chạy vào Lán trại lấy xe ô tô tải ben chở nhau chạy theo đường khác về nhà, khi đến cầu S, xã T, T3 ném con dao tước được từ tay P và cây rựa lấy ở Lán trại trước đó.

Nguyễn Viết Thanh H bị thương nặng và chết trên đường đưa đi cấp cứu. Huỳnh Ngọc T, Nguyễn Đình P, Dương Thái L, Dương Thái K1, Hoàng Hải Đ. Phạm Minh T3 và A M đều bị thương tích.

Biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh B lập lúc 8 giờ ngày 27/4/2020 tại thôn D, xã T, huyện H, thể hiện: Hiện trường vụ đánh nhau dẫn đến chết người xảy ra trên đoạn đường đất trước lán trại của Dương Thái K1 đi ra đến đoạn đường giáp vườn điều của ông Trần Văn T5, phát hiện các dấu vết sau: Lán trại của Dương Thái K1 có kích thước (10,20 x 6)m, mái lợp tôn, các vách hướng Bắc, T6 có gắn tôn, hướng N4 và hướng Đông để trống. Trụ sắt trước bên trái của Lán trại có tọa độ 10 độ 53 phút 52 giây Bắc - 107 độ 36 phút 6 giây Đ2 và lấy trụ sắt trước bên trái này làm mốc trong quá trình khám nghiệm.

Cách điểm mốc về hướng Tây 1,20m có 01 xe mô tô, biển số 60R1-5328, màu đen, khu vực đất dưới xe mô tô này có vùng chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt, kích thước (1,70 x 1,20)m được đánh dấu số 1. Trên đoạn đường đất trước Lán trại của Dương Thái K1 có 02 máy đào đất, cách trụ mốc lần lượt là 12,40m và 14,30m, xung quanh khu vực lán trại có nhiều vật dụng như: ống nhựa, máy bơm. Từ lán trại về phía Đông là đường vào khu vực khai thác cát.

Cách trụ mốc về hướng Tây 25m, phát hiện trên nền đất có nhiều dấu vết nhỏ giọt màu nâu đỏ, chiều hướng từ Tây sang Đ, kích thước (3 x 0,50)m là vị trí số 2.

Cách vị trí 2 về hướng Tây Nam 29m có 01 nón rộng vành màu trắng vàng, vành ngoài rộng 40cm là vị trí số 3.

Cách vị trí 3 về hướng Tây 1m phát hiện 01 đoạn tre, dài 1,52m, đường kính 02 đầu lần lượt là 04cm và 3,80cm nằm trên đường đất, cách lề phải theo hướng khám nghiệm là 01m là vị trí số 4.

Cách vị trí số 4 về hướng Tây 48m phát hiện 04 đôi dép nằm rải rác, khoảng cách xa nhất 32,60m là vị trí số 5.

Cách vị trí số 5 về hướng Tây 28m có 01 vết hằn trượt trên đất, kích thước (0,65 x 0,10)m xuống lề đường bên phải, bên dưới lề đường phát hiện 01 mảnh nhựa màu nâu nhạt (nâu cà phê) là vị trí số 6.

Cách vị trí số 6 về hướng Tây-Nam 44m, phát hiện 02 vết in hằn lốp xe ô tô trên nền đường đất, dài 10,30m, 02 vết cách nhau 1,60m; vết hằn bên trái có điểm cuối đến lề bên trái theo hướng khám nghiệm. Trên điểm cuối vết hằn có vùng mảnh vỡ của kính thủy tinh, kích thước (1,30 x 0,60)m là vị trí số 7. Cách vị trí số 7 về hướng T - Bắc 4,40m phát hiện có vùng mảnh vỡ của kính thủy tinh nằm rải rác, kích thước (6 x 4,20)m, trên vùng này phát hiện 01 chiếc dép và 01 cục đá không rõ hình, kích thước (10 x 8 x 7)cm là vị trí số 8.

Cách vị trí số 8 về hướng Tây - Bắc 5,30m phát hiện vùng chất nâu đỏ dạng nhỏ giọt chiều hướng đi hướng Nam, kích thước (6 x 0,10)m là vị trí số 9.

Cách vị trí số 9 về hướng Nam 165m phát hiện 01 áo thun ngắn tay màu xanh có nhiều chất nâu đỏ bám dính, 02 nón lưỡi trai màu đen, 01 nón tai bèo. Xung quanh khu vực này có nhiều dấu vết màu nâu đỏ dạng bệt đã khô thấm vào đất là vị trí số 10. Trong số 02 nón lưỡi trai tại vị trí này, có 01 nón bị rách trên đỉnh nón, bờ mép tương đối sắc gọn. Trên nón và áo thun có nhiều dấu vết màu nâu đỏ bám dính. Vị trí này có kích thước (2 x 1,70)m trên khu vực đất trồng keo tràm, cách lề bên trái theo hướng khám nghiệm là 0,80m Cách vị trí số 10 về hướng Nam 5,70m phát hiện vùng mảnh vỡ nhựa màu đỏ, kích thước (1,80 x 0,80)m, cách lề trái 01m. Trên vùng này có 01 vết cày hàn trên mặt đường, dài 0,45m, rộng nhất 0,10m là vị trí số 11. Vị trí số 11 có 02 vết hằn dài đến bánh sau bên phải xe ô tô, biển số 86H-xxxx, hiệu Mitsubishi là 12,20m.

Cách vị trí 11 về hướng Nam 2,70 phát hiện 01 con dao, cán bằng gỗ, 01 mặt sắt dài 38cm, lưỡi rộng nhất 6,1 cm, chiều dài lười 27cm và 01 đôi dép màu vàng, 01 ốp nhựa bên phải của xe mô tô là vị trí số 12.

Cách vị trí số 12 về hướng Nam 7,40m là xe ôtô, biển số 86H-xxxx, kính chắn gió phía trước có 02 vết rạn nứt hình mạng nhện, kính chắn gió ở vị trí cửa lái xe và kính phía sau lái xe bị vỡ, bên trong xe có nhiều mảnh vỡ của kính là vị trí số 13. Dưới đầu xe ô tô có 01 xe môtô, hiệu Future 125, màu nâu nhạt, biên sô 86B7- xxxxx bị vỡ nhiều vị trí ốp nhựa trên thân xe. Từ vị trí số 12 có nhiều vết hằn cày đất trên đường đến vị trí của xe mô tô, biển số 86B7-xxxxx, vết hằn có chiều rộng lần lượt là 06cm và 08cm, cách nhau 08cm, dài 11,50m là vị trí số 14. Trục bánh sau xe mô tô cách lề đường đất là 0,80m, trục bánh trước cách lề trái là 0,60m.

Phần trên lề bên phải đường đất phát hiện vùng chất màu nâu đỏ, kích thước (2,20 x 1,60)m phát hiện 01 nón lưỡi trai và 01 nón tai bèo. Vùng nâu đỏ cách tâm trục trước bên phải xe ô tô, biển số 86H-xxxx là 12m, cách mép đường đất bên phải theo hướng khám nghiệm là 2,40m là vị trí số 15.

Cách vị trí số 15 về hướng Tây 13,30m phát hiện 01 đoạn cây gỗ màu nâu dài 0,85m, thân rộng 03cm.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 122/2020/TT ngày 01/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận nguyên nhân chết của Nguyễn Viết Thanh H:

Dấu hiệu chính qua giám định: Trên cơ thể của Nguyễn Viết Thanh H có 05 vết thương: vết thương vùng giữa đỉnh chéo từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, mép sác gọn có kích thước 9 x 0,5cm, sâu 0,5cm đến xương sọ, có chiều hướng từ trên xuống dưới. Do vật sắc gây ra, có lực tác động rất mạnh; vết thương vùng mặt phải trước tai phải, mép sắc gọn, kích thước (2 x 1)cm, sâu 1,5cm, chiều hướng từ dưới lên, từ phải qua trái. Do vật sắc nhọn gây ra, lực tác động vừa; vết thương mặt ngoài 1/3 giữa cánh tay phải, mép sắc gọn, kích thước (2 x 1,3)cm, sâu 7cm, có chiều hướng từ phải sang trái, từ dưới lên. Do vật sắc nhọn gây ra, lực tác động vừa; vết thương 1/3 giữa cẳng tay phải, mép sắc gọn, đứt rời cẳng tay phải còn dính vạt da ở phía sau cẳng tay, chiều hướng từ trước ra sau. Do vật sắc gây ra, có lực tác động rất mạnh; vết thương mặt trước 1/3 trên cẳng chân phải, mép sắc gọn, kích thước (7 x 1,8)cm, mẻ mặt trước xương chày phải, chiều hướng từ trước ra sau. Do vật sắc gây ra, có lực tác động rất mạnh.

Nguyên nhân chết: Choáng mất máu cấp -> Suy tuần hoàn cấp -> Tử vong do vết thương vùng giữa đỉnh và vết thương 1/3 giữa cẳng tay.

Công văn s: 314/CV-PY ngày 19/10/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh B phúc đáp Công văn s: 1715/VPCQCSĐT, đề nghị giải thích hung khí gây ra vết thương trên tử thi Nguyễn Viết Thanh H, như sau:

Các vết thương trên cơ thể nạn nhân Nguyễn Viết Thanh H có hai loại hung khí gây ra: Vật sắc và vật sắc nhọn. Trong các loại hung khí đã thu giữ trên thì con dao có chiều dài 23cm, mũi nhọn, lười dao bằng kim loại màu trắng dài 10cm, một mặt cắt sắc bén, trên lưỡi dao có hai lỗ hình trái tim và con dao có chiều dài 41 cm, lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ, mũi dao nhọn, một mặt cắt, nơi rộng nhất của lười dao là 4,5cm đều không có khả năng gây ra vết thương thứ hai và vết thương thứ ba.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 182/2020/TgT ngày 08/5/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Dương Thái L, như sau:

Vết thương phần mềm mặt trong dưới cánh tay trái, hiện để lại sẹo, kích thước: (3,3 x 0,3)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; Mặt trước trên cánh tay trái bầm, tụ máu, kích thước: (8 x 4)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 0, 5%; vết sây sát da cẳng chân trái, đóng vảy màu nâu đen, kích thước (0,7 x 0,2) cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%; Đa chấn thương vùng chẩm, cổ, đùi phải hiện không để lại dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Tông tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%; vết thương cánh tay trái do vật sắc gây ra; vết bầm cánh tay trái; vết xây sát da cẳng chân trái do vật tày gây ra; vết thương cánh tay trái, vết bầm cánh tay trái, vết sây sát da cẳng chân trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương; Hiện tại không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích s: 183/2020/TgT ngày 08/5/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Dương Thái K1, như sau:

Vết thương vai trái, khâu 05 mũi chỉ dài 05cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; vết sây sát da khuỷu tay trái, đóng vảy nâu, kích thước: (3 x 2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%; vết thương vai trái do vật sắc gây ra; vết sây sát da khuỷu tay trái do vật tày gây ra; vết thương vai trái có chiều hướng tác động từ trái qua phải; vết sây sát da khuỷu tay trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương; Hiện tại không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 184/2020/TgT ngày 08/5/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Phạm Minh T3, như sau:

Vết thương vùng lưng phải, hiện để lại sẹo, kích thước: (9,8 x 0,3)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; Đa vết sây sát da vùng vai phải, vùng ngực hiện không để lại dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 02%; vết thương vùng lưng phải do vật sắc gây ra; vết sây sát khuỷu tay trái do vật tày gây ra; vết thương vùng lưng phải có chiều hướng tác động từ sau ra trước; vết sây sát khuỷu tay trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương; Hiện tại không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích s: 185/2020/TgT ngày 08/5/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Hoàng Hải Đ, như sau:

Vết thương phần mềm vùng lưng trái, hiện để lại sẹo, kích thước: (8 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; vết thương mặt trên ngoài đùi trái, khâu 03 mũi chỉ dài 2,3cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%; vết bầm vùng ngực hiện không để lại dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%; vết thương vùng lưng trái, đùi trái do vật sắc gây ra; vết thương vùng lưng trái có chiều hướng tác động từ sau ra trước; vết thương vùng đùi trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương; Hiện tại không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 186/2020/TgT ngày 08/5/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích A M, như sau:

Mặt mu, mô ngón cái bàn tay trái có 02 vết thương phần mềm, hiện để lại sẹo: vết 1 bề mặt đóng vảy nâu đen, kích thước: (2,3 x 0,5)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%; vết 2 bề mặt đóng vảy nâu, kích thước: (1,5 x 0, 3)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 02%; Hai vết thương bàn tay trái do vật sắc gây ra; Hai vết thương bàn tay trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương; Hiện tại không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 205/2020/TgT ngày 28/5/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Nguyễn Đình P, như sau:

Vết thương phần mềm vùng đỉnh chẩm phải, hiện để lại sẹo, kích thước: (1,5 x 0,8)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; vết thương phần mềm mặt mu đốt giữa ngón V bàn tay phải, hiện để lại sẹo, kích thước: 1 x 0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%; Chấn thương cẳng chân phải hiện không để lại dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%; vết thương vùng đỉnh chẩm phải do vật tày gây ra; vết thương bàn tay phải do vật sắc gây ra; vết thương vùng đỉnh chẩm phải có chiều hướng tác động từ sau ra trước; vết thương bàn tay phải có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương. Các vết thương với lực tác động nhẹ; Hiện không để lại cố tật.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 219/2020/TgT ngày 06/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận thương tích Huỳnh Ngọc T, như sau:

Vết thương 1/3 trên mặt trước cẳng chân phải, đứt 1/3 trên xương chày cẳng chân phải, chưa đến ống tủy, đã được điều trị hiện cal xương chưa ổn định để lại sẹo, kích thước: (7,5 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 03% + 02%; vết thương 1/3 giữa mặt trước cẳng chân phải, lóc màng xương 1/3 giữa căng chân phải, đã được điều trị hiện để lại sẹo, kích thước: (6 x 0,3)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%+02%; vết thương phần mềm 1/3 dưới cẳng chân phải, hiện để lại sẹo kích thước: (6 x 0,3)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 02%; Vùng cẳng chân - cổ chân có 02 vết thương: vết 1: Lóc màng xương 1/3 dưới cẳng chân phải, đứt gân duỗi cẳng chân chân phải, đứt cơ chày trước, vết 2: Đứt gân chày trước, đứt gân duỗi các ngón. Hiện hạn chế cử động cổ - bàn - các ngón chân bàn chân phải, để lại sẹo vết thương vết 1, kích thước: (11 x 0,3)cm; sẹo vết 2: kích thước: (9 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 11% + 1% + 2% + 2%; vết thương phần mềm mu bàn chân phải, không liên tục, để sẹo kích thước: (12 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 02%; vết thương 1/3 giữa mặt ngoài cẳng chân trái, lóc màng xương đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: (4,5 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01% + 01%; vết thương phần mềm mặt mu bàn chân trái, hiện để lại sẹo, kích thước: (2 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 01%; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 27%; Các vết thương do vật sắc gây ra; Các vết thương có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương với lực tác động vừa; Hiện tại hạn chế cử động cổ - bàn - các ngón chân bàn chân phải.

Kết luận giám định số: 2505/C09B ngày 28/5/2020 của Phân viện KHHS tại Thành phố H kết luận:

Trên các mẫu vật gửi giám định đều có máu người. Không phân tích được ADN hoàn chỉnh từ dấu vết máu trên cây rựa dài 1m05 nên không truy nguyên; Dấu vết máu dính trên cây rựa dài 1m06 và máu thu ở hiện trường tại vị trí ký hiệu số 10 là máu của Nguyễn Viết Thanh H; Dấu vết máu dính trên cây rựa dài 1m06 và máu thu ở hiện trường tại vị trí ký hiệu số 2 là máu của A M; Máu thu ở hiện trường tại các vị trí 1 và 9 có 01 kiểu gen nam giới khác, không trùng với kiểu gen của A M và Nguyễn Viết Thanh H.

Kết luận giám định số: 2956/C09B ngày 21/7/2020 của Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chỉ Minh kết luận:

Trên 04 con dao gửi giám định đều có dính máu người. Phân tích ADN, xác định: Dấu vết máu dính trên con dao dài 48cm là máu của Nguyễn Viết Thanh H. Dấu vết máu dính trên con dao bấm dài 23 cm là máu của Nguyễn Đình P; Máu trên con dao dài 41 cm và trên con dao thu tại hiện trường vụ án thấy lẫn nhiều nguồn ADN. Không truy nguyên được cá thể từ kết quả phân tích này.

Kết luận giám định số: 6029/C09B ngày 10/12/2020 của Phân viện KHHS tại Thành phố H kết luận:

Dấu vết máu thu ở hiện trường tại các vị trí 1 và 9 lẫn ADN, không truy nguyên được ADN của Huỳnh Ngọc T hay đối tượng khác; Bốn (04) con dao đã gửi giám định (lưu tại hồ sơ KLGĐ số: 2596/C09B ngày 21/7/2020 của Phân viện KHHS - Bộ C): Trên con dao dài 48cm có dính máu của Nguyễn Viết Thanh H, không phát hiện thấy ADN của Huỳnh Ngọc T. Trên lưỡi dao của con dao bấm dài 23cm, trên con dao dài 41 cm và trên con dao thu tại hiện trường phân tích thấy lẫn nhiều nguồn ADN. Không truy nguyên được cá thể; Hai (02) cây rựa đã gửi giám định (lưu tại hồ sơ KLGĐ số 2505/C09B ngày 28/5/2020 của Phân viện KHHS - Bộ C): Trên cây rựa dài 1m05 không phân tích được ADN hoàn chỉnh nên không truy nguyên được cá thể. Trên cây rựa dài 1m06 có dính máu của Nguyễn Viết Thanh H, không phát hiện thấy ADN của Huỳnh Ngọc T; Trên cây rựa dài 1m06 có dính máu của A M, không phát hiện thấy ADN của Huỳnh Ngọc T.

Kết luận giám định số: 6025/C09B ngày 07/01/2021 của Phân viện KHHS tại Thành phố H kết luận:

Không phát hiện thấy có dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung file âm thanh mẫu cần giám định; Tiếng nói của người nam (Ký hiệu “Thiện” trong “Bản dịch nội dung” trong file âm thanh mẫu cần giám định và tiếng nói của Huỳnh Ngọc T trong mẫu so sánh là của cùng một người; Nội dung hội thoại trong file âm thanh mẫu cần giám định đã được giám định và chuyển thành văn bản.

Kết luận giám định số: 328/C09B ngày 12/01/2021 của Phân viện KHHS tại Thành phố H kết luận:

Dấu vết trượt xước, nứt, vỡ, bám chất màu trắng (dạng nhũ) - màu đỏ (dạng hạt nhựa) và màu nâu (dạng mỡ bò) các chi tiết bên trái phía trước xe ô tô biên số 86H-xxxx (cụm đèn chiếu sáng, ốp kim loại bên dưới cụm đèn chiếu sáng, ốp cản) có chiều hướng từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp với dấu vết trượt xước, cong, nứt vỡ, bám chất màu nâu xám (dạng mỡ bò) các chi tiết phía sau xe mô tô biển so 86B7-xxxxx (cụm đèn tín hiệu, ốp nhựa sau, tay nâng sau yên, khung đuôi xe, mặt ngoài và cạnh ngoài bên phải biển số) có chiều hướng từ sau về trước, từ phải sang trái, khi xe mô tô biển số 86B7-xxxxx đang dựng chân chống nghiêng cắt mặt và đầu xe quay sang mép đường phải so với hướng chuyển động của xe ô tô biển số 86H-xxxx.

Dấu vết trượt xước, khuyết kim loại, mất sơn màu đen các chi tiết dưới gầm bên trái phía trước xe ô tô biển số 86H-xxxx (ốp kim loại cản trước, ốc trục dẫn động lái) có chiều hướng từ trước về sau phù hợp với dấu vết trượt xước, cong, khuyết kim loại in hình lục giác, bám chất màu đen phía sau và mặt ngoài phía dưới ống bô xe mô tô biển số 86B7-xxxxx, có chiều từ sau về trước, khi xe mô tô biển số 86B7-xxxxx đã đổ trái bên đường.

Kết luận định giá tài sản số: 575/HĐĐG ngày 16/6/2020 và Kết luận định giá lại số: 1286/HĐĐG ngày 04/12/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự tỉnh B, kết luận giá trị thiệt hại:

1/ Xe ôtô, biển số 86H-xxxx, nhãn hiệu Mitsubishi, năm sản xuất 2001, tại Việt Nam. Hiện trạng xe đã qua sử dụng, hoạt động được 213.413 km. Thiệt hại xe như sau: Đối với cụm bộ phận gồm: Đèn xi nhan trước bên trái vỡ, hông trái xe vùng tiếp giáp đèn xi-nhan bị móp kích thước 20 X 30cm; Cản trước bên trái bị trầy xước kích thước: (8 x 12)cm; Chất lượng trước thời điểm khi bị thiệt hại là: 30%. Thời điểm bị thiệt hại mức độ thiệt hại là 2,1% trên cấu thành tổng mức độ thiệt hại đã đánh giá được xác định lại biên bản định giá lập ngày 04/6/2020 là 5,2%; Đối với cụm bộ phận, gồm: Kính chắn gió trước bị rạn nứt hoàn toàn; Kính cửa trước bên trái vỡ hoàn toàn, kính cửa sau bên trái vỡ hoàn toàn, cửa xe bên trái vỡ có nhiều vết chặt đứt nẹp inox; Lườn xe bên hông phải bị móp kích thước: (8 x 15)cm; Chất lượng trước thời điểm khi bị thiệt hại là: 30%. Thời điểm bị thiệt hại mức độ thiệt hại là 3,15% trên cấu thành tổng mức độ thiệt hại đã đánh giá được xác định tại biên bản định giá lập ngày 04/6/2020 là 5,25%.

Trên cơ sở kết quả đánh giá thiệt hại của cơ quan chuyên môn Sở G (thành viên hội đồng) đã xác định thiệt hại các bộ phận của xe ôtô 86H-xxxx, giá trị thiệt hại của từng cụm bộ phận xe ôtô 86H-xxxx được định giá như sau:

Đối với cụm bộ phận, gồm: Đèn xi-nhan trước bên trái vỡ, bên hông trái xe vùng tiếp giáp đèn xi nhan bị móp kích thước: (20 x 30)cm; Cản trước bên trái bị trầy xước kích thước: (8 x 12)cm; Chất lượng trước thời điểm khi bị thiệt hại là: 30%. Thời điểm bị thiệt hại mức độ thiệt hại xác định là 2,1% trên cấu thành tổng mức độ thiệt hại đã đánh giá được xác định lại biên bản định giá lập ngày 04/6/2020 là 5,2%. Giá trị thiệt hại được xác định: 670.000.000 đồng x 30% x 2,1% = 4.221.000 đồng.

Đối với cụm bộ phận, gồm: Kính chắn gió trước bị rạn nứt hoàn toàn; Kính cửa trước bên trái vỡ hoàn toàn, kính cửa sau bên trái vờ hoàn toàn, cửa xe bên trái vỡ có nhiều vét chặt đứt nẹp inox; Lườn xe bên hông phải bị móp kích thước: 8 x 15cm; Chất lượng trước thời điểm khi bị thiệt hại là: 30%. Thời điểm bị thiệt hại mức độ thiệt hại là 3,15% trên cấu thành tổng mức độ thiệt hại đã đánh giá được xác định tại biên bản định giá lập ngày 04/6/2020 là 5,25%. Giá trị thiệt hại được xác định: 670.000.000 đồng x 30% x 3,15% = 6.331.500 đồng.

2/ Xe môtô, biển số 86B7-389.91, nhãn hiệu Honda, đăng ký lần đầu ngày 05/6/2019. Hiện trạng xe đã qua sử dụng, hoạt động được 2.701 km, động cơ vẫn còn khởi động được. Thiệt hại xe như sau: 02 phuộc trước cong ra sau; Bửng xe, dè trước và mặt nạ vỡ; Đèn xi nhan trước bên phải và trái vỡ; Đèn đuôi xe vỡ; Op nhựa hông bên phải và trái vỡ; Ốp nhựa tay lái bị trầy xước. Chất lượng xe thời điểm trước khi bị thiệt hại 85%. Mức độ thiệt hại 35%. Giá trị thiệt hại 30.200.000 đồng x 85% x 35%= 8.984.500 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS-P2 ngày 15/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B có nội dung:

Truy tố bị cáo A M về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Truy tố bị cáo Dương Thái L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc T, Nguyễn Đình P về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Truy tố bị cáo Dương Thái K1 về tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên xử:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo A M phạm tội “Giết người”. Xử phạt: Bị cáo A M 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2020.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Dương Thái L phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Dương Thái L 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 03 năm. Thời gian tính từ ngày tuyên án.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Ngọc T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình P, phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình P 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 178; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Dương Thái K1 phạm tội “Cố ý gây hư hỏng tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Dương Thái K1 (Tên gọi khác: Ú) 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 năm. Thời gian tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Dương Thái L, Dương Thái K1 cho UBND xã T, huyện H, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách của án treo: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 94 của Luật Thi hành án Hình sự năm 2019 nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến tang vật, án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm bồi thường dân sự theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thm:

Ngày 03/4/2023, bị cáo Huỳnh Ngọc T làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm không thỏa đáng, yêu cầu xét xử K1 về tội cố ý gây thương tích và không cho L và K1 được hưởng án treo, hủy án sơ thẩm xét xử lại.

Ngày 03/4/2023, bị cáo Nguyễn Đình P làm đơn kháng cáo: Yêu cầu hủy án sơ thẩm để xử lý hình sự Phạm Minh T3, Hoàng Hải Đ có vai trò đồng phạm với L và K1.

Ngày 03/4/2023, gia đình bị hại gồm các ông bà Nguyễn Viết H1, Nguyễn Thị A, Phạm Thị Thanh H2 làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Yêu cầu hủy án sơ thẩm, để giải quyết lại toàn bộ vụ án.

Ngày 10/4/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKSBT-P2, có nội dung: Đề nghị phúc xử theo hướng tăng mức án đối với bị cáo A M và không cho bị cáo Dương Thái L được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo T, bị cáo P cho rằng, án sơ thẩm không thỏa đáng. Bị cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án, trong đó có đồng phạm khác cùng tham gia với L, K1, Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo L án treo là chưa thỏa đáng, yêu cầu hủy án sơ thẩm để giải quyết lại.

Bị cáo L và bị cáo K1 xin được xem xét giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Phía người bị hại là gia đình của anh H cho rằng, án sơ thẩm xét xử không thỏa đáng, chưa đúng người đúng tội, đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án.

Bị cáo A M và luật sư bào chữa cho bị cáo A M cho rằng, bị cáo M bị tấn công trước, bị cáo là người dân tộc thiểu số không hiểu biết pháp luật, nên khi bị ức chế, tức giận bị cáo đã không kiểm soát được hành vi, bản án sơ thẩm đã xem xét đến nhiều tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xử phạt bị cáo với mức án 12 năm tù là phù hợp. Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm gia đình bị cáo có nộp thêm tại Cơ quan thi hành án số tiền hơn 79.000.000đồng để bồi thường cho bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H, phát biểu quan điểm cho rằng: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã có kháng nghị yêu cầu tăng án đối với bị cáo M và không cho bị cáo L được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao rút lại một phần kháng nghị đối với bị cáo L vì mức án sơ thẩm là phù hợp. Riêng đối với bị cáo M có hành vi chém nhiều nhát vào phía bị hại, đây là hành vi cố ý, mức án sơ thẩm xét xử bị cáo là chưa phù hợp, nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng án đối với bị cáo A M từ 14 đến 15 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thm tra các chứng cứ tại phiên tòa, nghe bị cáo trình bày, nghe Đại diện Viện kiểm sát và luật sư phát biu quan điểm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Huỳnh Ngọc T, bị cáo Nguyễn Đình P, kháng cáo của ông Nguyễn Viết H1, bà Nguyễn Thị A, bà Phạm Thị Thanh H2 và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo, kháng nghị hợp lệ.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:

[2.1] Xuất phát từ mâu thuẫn giữa anh em Dương Thái L, Dương Thái K1 và Mai Trường T4 về việc làm đường vào nơi khai thác cát tại thôn D, xã T, huyện H.

Tối ngày 25/4/2020, L, T3 có đến nhà T4, tại đây hai bên có xô xát thì được can ngăn. L có dùng rựa chém làm hư hỏng Camera trước nhà của T4 nên sau đó T là bạn của T4 có điện thoại và đe dọa sẽ đâm chết L.

Đến 13 giờ ngày 26/4/2020, Huỳnh Ngọc T rủ Nguyễn Viết Thanh H, Nguyễn Đình P, Nguyễn Ngọc Đ3 đến kho chứa mì của gia đình Mai T7 T4 lấy dao cất dấu trong người, rồi điều khiển 2 xe mô tô chở nhau đến nhà Phạm Minh T3 nhưng không gặp T3.

Ngay sau đó nhóm của T tiếp tục chở nhau vào lán trại khai thác cát của anh em L, K1. Tại đây H đã dùng dao chém L trúng một cái vào tay trái, K1 thì điều khiển xe ô tô biển số 86H-xxxx chạy theo nhóm của T đang chở nhau thì gặp T3 và Đ đang từ đầu đường bê tông điều khiển xe mô tô đi vào láng trại, khi xe của Đ đến gần thì H đưa dao lên chém Đ, Đ hoảng sợ lách xe làm xe mất thăng bằng té ngã ra mép đường, T3 bỏ chạy lên bờ đất thì bị T từ phía sau dùng dao chém vào lưng nên T3 chạy vào láng trại lấy cây rựa dài 1.05m chạy ra, nhóm của T dùng đá và dùng dao chém và đập vào xe mô tô của K1.

T, H, P điều khiển xe mô tô chạy ra 1 đoạn 300m thì dừng lại, dùng 2 xe mô tô làm vật cản hình chữ V chắn ngang đường. Khi K1 đi xe ô tô chở L, T3 và Đ chạy ra thì thấy các mô tô chắn ở đường không tránh được nên phần đầu xe ô tô tông vào xe mô tô biển số 86B7-xxxxx, làm mô tô bị rơi vào mép đường trái rồi dừng lại, xe bị tắt máy. T3 cầm rựa xuống trước thì bị H, P cầm dao xông vào đánh, T3 tựa lưng vào hông xe ô tô bên phải và lùi về hướng sau để chống đỡ. Đ xuống xe thì bị P cầm dao bấm rượt đuổi chạy vào đám mì xen lẫn vào rừng keo lá tràm khoảng 20m, làm Đ bị té ngã, P có dùng dao bấm đâm trúng vào đùi trái khi T3 chạy đến hỗ trợ Đ, bị P đâm xược vào vùng ngực, nên T3 dùng rựa khống chế P và tước được dao đưa cho Đăng giữ. Khi Dương Thái L xuống xe thì bị T cầm dao xông vào đánh, nên L lượm 1 đoạn cây đánh lại, T dùng dao đâm xược nách trái của L nên L dùng tay trái kẹp được tay dao của T cả hai giằng co. K1 xuống xe thấy L và T giằng co nên xông vào ôm T từ phía sau vật ngã xuống, T nằm ngửa trên người K1, L nằm xấp trên người T, L ở trên tước được con dao của T và dùng dao chém nhiều nhát vào 2 chân gây thương tích cho T.

Thời gian này A M đến khu vực láng trại, lấy nước cho dê uống thì nghe tiếng ồn ào tại khu đánh nhau nên có điều khiển xe mô tô, phía sau có cây rựa dài chạy ra gần vị trí để dừng xem. Mách xuống xe thì bị H dùng 2 tay cầm dao xông vào chém trúng vào tay trái, M quay lại mô tô lấy cây rựa đánh nhau với H và chém H 3 nhát trúng vào dầu, tay và chân của H. Hậu quả Nguyễn Viết Thanh H tử vong trên đường đưa đi cấp cứu, Dương Thái L, Dương Thái K1 và Hoàng Hải Đ, Nguyễn Đình P bị thương tích, tỷ lệ thương tật là 30%. Huỳnh Ngọc T tỷ lệ thương tật là 27%, Phạm Minh T3, A M cũng bị thương, tỷ lệ thương tật là 2%, xe ô tô biển số 86H-xxxx và xe mô tô 86B7-xxxxx cũng bị hư hỏng.

[2.2] Xét kháng cáo của các bị cáo:

[2.2.1] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo A M:

Bị cáo không quen biết, không mâu thuẫn gì với nhóm của Huỳnh Ngọc T, khi đi xe ngang qua nơi đánh nhau thì bị Nguyễn Viết Thanh H dùng kiếm chém vào tay gây thương tích, A M đã lấy cây rựa trên xe chém nhiều cái vào đầu, tay, chân và những vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại H gây tử vong.

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, xử phạt mức án 12 năm tù là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, trong đó có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại, nhân thân là người dân tộc thiểu số, chưa có tiền án tiền sự, bị cáo phạm tội do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra, được pháp luật quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự là phù hợp.

Lẽ ra trong trường hợp này, với hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, bị cáo phải được xét xử ở khoản 2 về tội danh nêu trên. Tuy nhiên bị cáo không có kháng cáo, Viện kiểm sát cũng không có kháng nghị về vấn đề này.

Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp tiền số tiền 79.268.000đồng bồi thường thêm cho gia đình bị hại, theo phiếu thu số 0000304, 0000305 cùng ngày 23/8/2023 tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh B. Đây là những tình tiết mới nên cũng cần xem xét trong quá trình giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo, kháng nghị như đã phân tích nêu trên.

[2.2.2] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Dương Thái L:

Khi bị cáo L bị Huỳnh Ngọc T dùng dao tấn công trước, đâm vào hông nách L, quá trình giằng co, L kẹp được con dao của T và tước được con dao của T, lúc này hành vi tấn công của T không còn nguy hiểm, nhưng L đã sử dụng dao và hung khí tước được từ Thiện để chém nhiều nhát vào 2 chân của T gây thương tích cho T.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm a khoản 1, điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ Luật Hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” và xử phạt bị cáo với hành vi này là phù hợp, trong đó có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự hiện, đang bị suy thận mãn tính giai đoạn 5 đã ghép thận, bị cáo đã khắc phục một phần bồi thường cho T, những tình tiết này được pháp luật quy định tại điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H, đã rút lại kháng nghị đối với bị cáo L. Xét thấy, việc rút kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H là phù hợp, nên Hội đông xét xử chấp nhận và cũng không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo T.

[2.2.3] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Huỳnh Ngọc T:

Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm, bị cáo phủ nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên qua tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ thể hiện: Vào ngày 26/4/2020 Huỳnh Ngọc T đã rủ Nguyễn Viết Thanh H, Nguyễn Đình P và Nguyễn Ngọc Đ3 chuẩn bị hung khí nguy hiểm là dao đi đánh nhau với L và T3 gây thương tích cho L, K1, T3, Đ.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ Luật Hình sự. Trong đó xác định T là người khởi sướng, chủ mưu cầm đầu, dùng hung khí nguy hiểm. Trong quá trình giải quyết vụ án thì bị cáo không thành khẩn khai báo, nên cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này là phù hợp, được pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, bị cáo còn có nhiều tiền sự về tội đánh người, nhân thân xấu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo mức án 1 năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là phù hợp với tính chất, mức độ cũng như hậu quả do bị cáo gây ra, nên kháng cáo của bị cáo không có cơ sở chấp nhận.

[2.2.4] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyn Đình P:

Tại cấp sơ thẩm, Nguyễn Đình P khai báo thành khẩn, cùng T, H chuẩn bị dao là hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho người khác, theo bị cáo khai có dùng dao quơ qua quơ lại nhưng không rõ là có trúng ai hay không, bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho T, H. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 1 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” là đã có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như đã nêu trên là phù hợp.

[2.2.5] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Dương Thái K1:

Bị cáo K1 là người điều khiển xe ô tô biển số 86H-xxxx chở L, T3, Đ, khi thấy phía trước có 2 xe mô tô xếp thành hình chữ V cản đường, các xe này do T, Đ3 làm vật cản chướng ngại vật, nhưng K1 không dừng xe hẳn lại mà lách và tông vào xe 86B7-xxxxx gây hư hỏng. Qua quá trình giám định đã xác định tài sản thiệt hại có giá trị là 8.984.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Hủy hoại tài sản của người khác” với mức án 6 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 1 năm, theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là phù hợp, trong đó có xem xét đến quá trình khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận, lần đầu phạm tội và cũng đã khắc phục bồi thường cho bị hại.

[2.3] Xét kháng cáo của phía gia đình người bị hại ông, bà Nguyên Việt H5, Nguyễn Thị A, Phạm Thị Thanh H2:

Phía gia đình người bị hại kháng cáo cho rằng còn có đồng phạm tham gia giết nạn nhân là ông Nguyễn Viết Thanh H.

Tòa án sơ thẩm đã xác định, khi có đầy đủ tài liệu, chứng cứ, và có căn cứ có các đồng phạm khác thì cơ quan điều tiếp tục xử lý theo quy định pháp luật. Do đó trường hợp này, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân cấp sơ thẩm sẽ tiếp tục thực hiện việc điều tra đối với các đồng phạm khác tham gia, cũng như các hành vi phạm tội khác, nếu phát hiện có đầy đủ chứng cứ theo quy định của pháp luật thì sẽ giải quyết theo luật định.

[2.4] Do đó, kháng cáo của phía người bị hại, của bị cáo T, bị cáo P yêu cầu hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại là không có cơ sở chấp nhận.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

[4] Về án phí hình sự phúc thm: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo T, bị cáo P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355 Bộ Luật tố tụng Hình sự.

 Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Ngọc T, bị cáo Nguyễn Đình P, ông Nguyễn Viết H1, bà Nguyễn Thị A, bà Phạm Thị Thanh H2 và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

1/ Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo A M phạm tội “Giết người”. Xử phạt: Bị cáo A M 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2020.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Dương Thái L phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Dương Thái L 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 03 năm. Thời gian tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Ngọc T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình P, phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình P 01 năm tù, Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 178; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Dương Thái K1 phạm tội “Cố ý gây hư hỏng tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Dương Thái K1 (Tên gọi khác: Ú) 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 năm. Thời gian tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Dương Thái L, Dương Thái K1 cho UBND xã T, huyện H, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách của án treo: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 94 của Luật Thi hành án Hình sự năm 2019 nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

3/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo T, bị cáo P mỗi người phải nộp số tiền 200.000đồng.

4/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người và tội cố ý gây thương tích số 653/2023/HS-PT

Số hiệu:653/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về