TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 227/2021/HS-PT NGÀY 16/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 117/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 2 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Hữu P do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hữu P; giới tính: nam; sinh năm 1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; cư trú: X5 ĐXH, phường PL, Quận X9, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 02/12; nghề nghiệp: phụ hồ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị Th; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có;
Bị bắt tạm giam từ ngày 23/01/2020 (có mặt).
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị B, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí (có mặt).
- Kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo Nguyễn Hữu P kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Gia đình bà Lê Thị H mua một phần đất (5m x 6m) của gia đình ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị Th (cha mẹ bị cáo) từ năm 1993 và cất nhà số 5 ĐXH, phường PL, Quận X9 để sinh sống. Đường đi vào nhà bà H là lối đi chung thuộc sở hữu của gia đình ông C.
Từ khoảng 20 giờ đến 23 giờ ngày 20/01/2020, Nguyễn Hữu P đi nhậu với bạn. Sau khi nhậu xong, P đến nhà bạn gái tại địa chỉ TH, phường P Long A, Quận X9 để nói chuyện nhưng không gặp được. Đến khoảng 01 giờ ngày 21/01/2020, P suy nghĩ đến việc gia đình bà H thường xuyên để xe lấn chiếm lối đi chung nên bực tức trong lòng và nảy sinh ý định đốt nhà hù dọa để bà H phải bán nhà cho gia đình P đi nơi khác ở. Bị cáo khai sử dụng xe gắn máy D biển số X31 đến cây xăng LB số 445 ĐXH mua khoảng 0,5 lít xăng đựng trong chai nước suối sau đó trở về nhà tại số X5 ĐXH, phường PL, Quận X9.
Khoảng 04 giờ cùng ngày, bị cáo thức dậy, xuống nhà bếp đổ xăng vào tấm thảm lau chân sau đó dùng cây gắp đá hình chữ V kẹp tấm thảm đi vòng ra khu đất phía trước nhà bà H. P đứng cạnh tường rào gạch cao khoảng 1,6m ngăn cách giữa nhà P và nhà bà H, tay phải cầm thảm, tay trái bật lửa đốt cháy tấm thảm và ném qua bức tường vào vị trí hiên ngay cửa ra vào nhà bà H. Do nhà bà H đông người sinh sống (khoảng 6 – 7 người), chỉ có 01 cửa ra vào nên thường để xe gắn máy ngoài khu vực hiên nhà có chiều rộng khoảng 1,2 m, cửa nhà không khóa. Thời điểm xảy ra vụ án, tại hiên nhà để 03 xe gắn máy chắn trước cửa ra vào.
Khi thấy lửa bén vào xe máy cháy lớn, P thấy hối hận muốn dập lửa nên mặc 01 áo mưa loại cánh dơi đi đến trước hiên nhà bà H khom người lấy tấm thảm thì bị lửa táp vào khiến hai chân bị bỏng, tay trái bị xém một phần lông tay, vạt áo mưa bị xoắn lại. Lúc này, P thấy cha mình là ông C đã thức dậy, sợ bị phát hiện nên rời khỏi hiện trường. Trích xuất camera cho thấy, trên đường đi để tránh bị phát hiện, P nhặt 01 nón bảo hiểm đội vào đầu, lấy quần Jean và khẩu trang người dân phơi bên đường mặc vào. Khi ra tới đầu hẻm, P cởi bỏ áo mưa (P chỉ điểm, đã thu hồi được) và đi hướng ra ĐXH về cầu NL. P tiếp tục quẹo vào con đường ven sông, vứt bỏ nón bảo hiểm, khẩu trang xuống sông (không thu hồi được). Sau đó, P đến khu vực ngã 3 đường số 24 giao với đường số 16, P cởi bỏ quần Jean bỏ vào thùng rác (không thu hồi được) và trở về nhà sinh hoạt bình thường. Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 23/01/2020, P bị bắt giữ.
Hậu quả đám cháy do P gây ra làm hư hỏng toàn bộ căn nhà cấp 4, diện tích 33m2 và tài sản trong nhà (chỉ định giá được tài sản là chiếc xe gắn máy hiệu A biển số D88 của bị hại Lê Hoàng Tr có giá trị là 23.592.000 đồng) và làm chết toàn bộ 05 người trong nhà số 5 ĐXH gồm:
1. Bà Lê Thị H. Sinh năm: 1950 (chủ nhà).
2. Bà Lê Thị Tuyết M. Sinh năm: 1976 (con gái bà H) 3. Ông Lê Hoàng Tr. Sinh năm: 1978 (con trai bà H) 4. Ông Lê Hoàng Th. Sinh năm: 1980 (con trai bà H) 5. Bà Trần Mỹ Ch. Sinh năm: 1990 (vợ Lê Hoàng Tr) Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 82/TT.20, 84/TT.20, 85/TT.20, 86/TT.20, 87/TT.20 cùng ngày 11/02/2020 kết luận nguyên nhân chết của 5 tử thi trong vụ cháy là do “Chết cháy”.
Tại bản cáo trạng số 517/CT-VKS-P2 ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu P về tội “Giết người” và “Hủy hoại tài sản” theo điểm a, n, q khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Giết người” và “Hủy hoại tài sản”.
- Áp dụng điểm a, q, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt: Nguyễn Hữu P tử hình về tội “Giết người” và 02 (hai) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là tử hình.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.
Ngày 11/01/2021, bị cáo Nguyễn Hữu P kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Hữu P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử. Bị cáo kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội quay trở về phụng dưỡng cha mẹ già.
Phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Hữu P về tội “Giết người” và “Hủy hoại tài sản” là đúng người, đúng tội. Hậu quả mà bị cáo gây ra là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Khi xét xử Tòa án sơ thẩm áp dụng hình phạt tử hình là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên xử hình phạt tử hình đối với bị cáo.
Luật sư của bị cáo phát biểu quan điểm bào chữa: Luật sư đồng ý với quan điểm về tội danh và khung hình phạt. Tuy nhiên đề nghị xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ như sau: bị cáo bị trầm cảm, ngoài ra do có uống rượu nên khó kiểm soát được hành vi của mình, bị cáo không cố ý, không lường trước được hậu quả nên khi xe cháy thì bị cáo không thể dập nổi đám cháy, bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, xin giảm nhẹ để mong muốn quay về phụng dưỡng cha mẹ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Hữu P trình bày: đồng ý với lời bào chữa của luật sư, không bào chữa gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm tranh luận: Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án không có căn cứ chứng minh bị cáo bị bệnh trầm cảm, bị cáo nhận thức được hành vi và hậu quả do mình gây ra, do đó đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm án cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như dữ liệu trích xuất từ camera tại khu vực hiện trường gây án, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai người làm chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 04 giờ ngày 21/01/2020, Nguyễn Hữu P sinh sống tại nhà số X5 ĐXH, phường PL, Quận X9 đã dùng xăng tẩm vào tấm thảm lau chân sau đó đốt lửa và ném qua nhà bà Lê Thị H tại số 5 ĐXH, phường PL. Theo kết luận giám định số 1087/C09B ngày 22/01/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, xác định nguyên nhân cháy do con người sử dụng nguồn nhiệt tác động trực tiếp lên các vật liệu và chất cháy tại khu vực cửa chính ra vào nhà bị hại sau đó lan ra xung quanh dẫn đến đám cháy.
Bị cáo cho rằng chỉ có ý định đốt nhà để hù họa để gia đình bị hại phải bán nhà đi nơi khác, không có ý định tước đoạt sinh mạng của người khác. Tuy nhiên tại thời điểm thực hiện hành vi bị cáo biết rõ trong nhà bị hại có nhiều người đang ngủ, nhiều xe gắn máy đang dựng trước hiên nhà, ngay cửa chính ra vào (nhà không còn cửa nào khác) nhưng vẫn thực hiện hành vi đốt nhà bị hại. Khi đám cháy bùng phát, bản thân bị cáo không kiểm soát được nhưng bị cáo không truy hô để gia đình bị hại thức giấc cũng như người dân xung quanh cùng tham gia chữa cháy mà lặng lẽ rời khỏi hiện trường, bỏ mặc hậu quả xảy ra. Hậu quả đám cháy do bị cáo gây ra làm chết toàn bộ 05 người trong nhà số 5 ĐXH gồm:
1. Bà Lê Thị H. Sinh năm: 1950 (chủ nhà).
2. Bà Lê Thị Tuyết M. Sinh năm: 1976 (con gái bà H) 3. Ông Lê Hoàng Tr. Sinh năm: 1978 (con trai bà H) 4. Ông Lê Hoàng Th. Sinh năm: 1980 (con trai bà H) 5. Bà Trần Mỹ Ch. Sinh năm: 1990 (vợ Lê Hoàng Tr) Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 82/TT.20, 84/TT.20, 85/TT.20, 86/TT.20, 87/TT.20 cùng ngày 11/02/2020 kết luận nguyên nhân chết của 5 tử thi trong vụ cháy là do “Chết cháy”.
Về hành vi hủy hoại tài sản, mặc dù thực tế đám cháy làm hư hỏng toàn bộ căn nhà cấp 4, diện tích 33m2 cũng như tài sản trong nhà. Tuy nhiên, do không còn dấu vết tại hiện trường và không có tài liệu chứng minh nên chỉ có căn cứ định giá tài sản đối với chiếc xe gắn máy hiệu A biển số D88 của bị hại Lê Hoàng Tr có giá trị là 23.592.000 đồng.
Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử của bị cáo Nguyễn Hữu P đã phạm các tội "Giết người" và "Hủy hoại tài sản” theo điểm a, n, q khoản 1 Điều 123 và khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện tính côn đồ, hung hãn, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt giữa hàng xóm với nhau nhưng bị cáo lại sử dụng xăng để đốt nhà dẫn đến hậu quả 05 người tử vong do chết cháy. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhất đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đầy đủ tài liệu chứng cứ đã tuyên mức hình phạt cao nhất là tử hình đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình thêm chứng cứ hay tình tiết giảm nhẹ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có căn cứ để chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử đồng ý với ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát về việc không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Hữu P. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, I/ Không chấp nhận nội dung yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu P. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Giết người” và “Hủy hoại tài sản”.
Áp dụng điểm a, q, n khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Hữu P tử hình về tội “Giết người” và 02 (hai) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là tử hình. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/01/2020.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
II/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Hữu P phải chịu 200.000 đồng.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Hữu P có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người và hủy hoại tài sản số 227/2021/HS-PT
Số hiệu: | 227/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về