TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 19/06/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Trong ngày 19 tháng 6 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2023/TLST- HS ngày 14 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Minh P, sinh năm 1992 tại Khánh Hòa. Tên gọi khác: Tý Thông. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa giáo. Nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện C tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Học vấn: 8/12. Cha: Nguyễn Minh T (Đã chết), sinh năm 1962. Mẹ: Hoàng Thị H, sinh năm 1965. Vợ: Nguyễn Thị Minh T1, sinh năm 1996. Có 01 con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Ngày 22/9/2015, bị TAND tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 134/2015/HSPT. Chấp hành xong hình phạt ngày 23/11/2016.
+ Ngày 09/8/2022, bị TAND tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 82/2022/HSST. Bị cáo chưa thi hành Bản án trên.
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 19/7/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh K. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh P theo chỉ định của Tòa án: Luật sư Lê Đình H1, Văn phòng Luật sư Phan Tấn H2 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K; địa chỉ: A C, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
- Bị hại: Anh Nguyễn Minh C, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Nguyễn H3, sinh năm 1988; Thôn Văn Tứ Đ, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
2. Nguyễn Đ1, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
3. Hồ Công T2 (R), sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
4. Nguyễn Quốc B, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
5. Trần Quốc B1 (Bảo Đ2), sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
6. Nguyễn Anh H4 (Bờm), sinh năm 1994; nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh P và Nguyễn H3 có quen biết nhau ngoài xã hội và nảy sinh mâu thuẫn. Khoảng 20 giờ ngày 12/02/2022, trong khi ngồi nhậu với Trần Quốc B1 (B1 đen), Nguyễn Anh H4 (B) thì P nhớ lại mâu thuẫn với H3 nên mang theo trong người 01 con dao bấm dài khoảng 20 cm bằng kim loại, điều khiển xe máy đến nhà H3 để nói chuyện và xảy ra kình cãi với H3. Cho rằng Quốc B1, H4 nói khích P đến gây sự nên H3 điện thoại cho Quốc B1 nói: Quốc Bảo và H4 thích gì thì đến gặp H3 giải quyết. Lúc này, Nguyễn Minh C (em ruột của H3) đang nhậu gần đó nghe tiếng ồn ào trước nhà mình nên điều khiển xe máy về. Đến nơi, thấy P đang ngồi trên xe máy cãi nhau với H3 thì C cho xe máy của mình đâm vào xe máy của P rồi cả hai xảy ra xô xát lẫn nhau thì được H3, Hồ Công T2 và Nguyễn Quốc B (hàng xóm của H3, C) đến can ngăn. Sau đó, H3 và T2 lấy xe máy chở P đi về nhà. Đi được một đoạn thì gặp Quốc B, H4 mang theo 02 con dao Thái Lan đi đến. H3 và T2 dừng xe lại nói chuyện với Quốc B, H4 với nội dung là hiểu lầm giữa hai bên và nói Quốc B và H4 đi về. Lúc này, C cho rằng P gọi người đến đánh H3 nên từ nhà chạy ra chỗ H3, P, B, H4 đứng thì bị P xuống xe lấy trong người ra một con dao bấm đâm một nhát vào vùng ngực trái của C gây thương tích.
Tại Giấy chứng thương số 142 ngày 30/3/2022 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh K xác định tình trạng thương tích của Nguyễn Minh C lúc vào viện:
- Vết thương 03cm vị trí gian sườn V đường nách giữa bên trái. Hematoma vị trí vết thương kích thước 05cm.
- Cận lâm sàng có giá trị chuẩn đoán + Siêu âm: Dịch màng phổi trái lượng ít.
+ CT Scan ngực: Tràn dịch – tràn khí màng phổi trái. Phù nề mô mềm thành ngực trái. Xơ xẹp đáy phổi trái.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 207 ngày 20/5/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh K kết luận: Vùng ngực trái có 01 vết sẹo kích thước nhỏ (sẹo vết thương). Tỷ lệ thương tật 01%; Vùng ngực trái có 01 vết sẹo kích thước trung bình (sẹo phẫu thuật). Tỷ lệ 02% thương tật; Tràn dịch phổi trái. Tỷ lệ thương tật 04%; Vết thương thùy lưỡi phổi trái. Tỷ lệ thương tật 06% ; Vết thương thùy dưới phổi trái. Tỷ lệ thương tật 06%; Tổn thương cơ hoành. Tỷ lệ thương tật 03%. Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể là 20%.
Việc thu giữ tài liệu, đồ vật; vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra không thu giữ được con dao do P dùng để đâm C; Thu giữ được 02 con dao của Trần Quốc B1 và Nguyễn Anh H4, cụ thể: 01 con dao Thái Lan 30 cm, cán gỗ màu nâu đậm dài 12 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng sáng dài 18 cm, bản rộng 06 cm, nhãn hiệu KIWI – Brand Stainless Steel; 01 con dao Thái Lan dài 30 cm, cán gỗ màu nâu nhạt dài 12 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng sáng dài 18 cm, bản rộng 06 cm, nhãn hiệu KIWI - Brand Stainless S.
Bản Cáo trạng số 45/CT-VKSKH-P1 ngày 13/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh P về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.
+ Đối với Nguyễn Minh C có hành vi gây sự đánh nhau với Nguyễn Minh P nhưng không gây hậu quả, diễn biến sự việc nhanh và chưa ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự nên không đủ căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
+ Đối với Trần Quốc B1, Nguyễn Anh H4 đã có hành vi mang theo dao đến gặp H3 nhưng không tham gia cùng Nguyễn Minh P đánh Nguyễn Minh C nên không có căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” với vai trò đồng phạm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã giữ nguyên kết luận truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Giết người”.
+ Về bồi thường dân sự. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại 40.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không xét.
Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con dao Thái Lan mà Trần Quốc B1, Nguyễn Anh H4 nộp cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh K để xử lý theo quy định.
+ Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đồng ý với tội danh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh P. Tuy nhiên, trong vụ án này bị hại cũng có phần lỗi nên hành vi của bị cáo không có tính chất côn đồ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật hình sự.
Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, phạm tội chưa đạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 57 và Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.
+ Bị cáo đồng ý với nội dung cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người làm chứng theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an tỉnh K, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[3] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 20 giờ ngày 12/02/2022, tại khu vực đường bê tông thuộc thôn V, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa, Nguyễn Minh P đã có hành vi dùng 01 con dao bấm đâm vào vùng ngực trái của Nguyễn Minh C làm C bị tổn thương cơ thể với tỷ lệ thương tật 20%.
Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng bị cáo đã dùng 01 con dao bấm là hung khí nguy hiểm, có tính sát thương đâm vào vùng trọng yếu, có khả năng gây tử vong cao, bị hại không chết là ngoài ý muốn của bị cáo. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, coi thường sức khỏe, tính mạng người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, Cáo trạng số 45/CT-VKSKH-P1 ngày 13/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh P về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến thân thể của bị hại, gây mất an toàn trật tự xã hội tại địa phương, bị cáo đã bị xử phạt về hành vi “ Cố ý gây thương tích”, “Gây rối trật tự công cộng” nhưng vẫn tiếp tục phạm tội mới có tính chất nguy hiểm cho xã hội hơn, thể hiện sự coi thường pháp luật, nên cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, đã bồi thường cho bị hại 40.000.000 đồng và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.
[ 4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Minh C 40.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không xét.
[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra không truy thu được vật chứng.
[6] Trần Quốc B1, Nguyễn Anh H4 có nộp cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh K 02 con dao Thái Lan. Xét thấy, 02 con dao trên không phải là vật chứng vụ án nên giao cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh K để xử lý theo quy định.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, khoản 3 Điều 57, Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh P 09 (C1) năm tù về tội “Giết người”; Tổng hợp với hình phạt 02 (Hai) năm 06 (S) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 82/2022/HSST ngày 09/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả hai bản án là 11 (Mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 19/7/2022.
2. Giao 02 con dao Thái Lan của Trần Quốc B1, Nguyễn Anh H4 đã nộp cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh K cụ thể: 01 con dao Thái Lan 30 cm, cán gỗ màu nâu đậm dài 12 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng sáng dài 18 cm, bản rộng 06 cm, nhãn hiệu KIWI – Brand Stainless Steel; 01 con dao Thái Lan dài 30 cm, cán gỗ màu nâu nhạt dài 12 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng sáng dài 18 cm, bản rộng 06 cm, nhãn hiệu KIWI - Brand Stainless Steel để xử lý theo quy định.
Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 4 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh K với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa.
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Minh P phải nộp 200.000đ tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội giết người và gây rối trật tự công cộng số 49/2023/HS-ST
Số hiệu: | 49/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về