Bản án về tội giết người và cướp tài sản số 381/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 381/2021/HS-PT NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 405/2021/TLPT-HS ngày 23/7/2021 đối với bị cáo Lê Văn T, bị xét xử về tội “Giết người” và “Cướp tài sản” do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Văn T, sinh ngày 11/3/1996, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở trước khi bị bắt: tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T, sinh năm 1969 và con bà Đỗ Thị H, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 13/2017/HSST ngày 10/5/2017, bị Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Giao cấu với trẻ em” (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Nguyễn Đình H – Văn phòng luật sư X, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 11/11/2020, Lê Văn T (sinh năm 1996, trú tại huyện B, tỉnh Đắk Lắk) đón xe khách từ tỉnh Bình Dương về nhà tại huyện B, tỉnh Đắk Lắk; trước khi đi T lấy 01 con dao dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại, mũi dao sắc, nhọn bỏ vào trong ba lô. Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 12/11/2020, T về đến Bến xe phía Nam tỉnh Đắk Lắk, sau khi xuống xe T đi bộ tìm quán Internet chơi chờ trời sáng. Trên đường đi T gặp ông Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1965, trú tại tỉnh Đắk Lắk) hành nghề xe ôm hỏi có đi xe không, do thiếu tiền tiêu xài và thấy ông Đ tướng người nhỏ con nên T nảy sinh ý định giết ông Đ để cướp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 47L1-129.47 nên T nói ông Đ chở đến hẻm 327 đường Y, phường T, thành phố B. Khi đi đến cuối hẻm 327 đường Y Moan thấy đường vắng, trời tối nên T nói ông Đ dừng lại đồng thời T lấy trong ba lô 01 con dao đã chuẩn bị từ trước đâm liên tiếp vào người ông Đ, bị đâm ông Đ tri hô “cướp, cướp” và bỏ chạy. Lúc này anh Trần Đỗ N (sinh năm 1986, trú tại hẻm 327, đường Y, phường T, thành phố B) nghe tiếng ngã xe và hô “cướp, cướp” nên dậy bật điện để ra kiểm tra. Thấy có người dân thức dậy sợ bị phát hiện nên T không lấy xe mô tô mà bỏ trốn khỏi hiện trường. Sau đó anh N đã báo Cơ quan Công an và đưa nạn nhân đi cấp cứu, nhưng ông Đ đã tử vong trên đường đi cấp cứu. Đến chiều cùng ngày, trong lúc đang trên đường về nhà tại huyện B thì Lê Văn T bị phát hiện, bắt giữ cùng 01 con dao dài 30cm, lưỡi dao dài 20,2cm, mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen; 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 áo thun ngắn tay cổ tròn màu trắng; 01 quần kaki lửng màu xám.

Kết quả khám nghiệm hiện trường, tử thi:

- Khám nghiệm hiện trường: Hiện trường nơi xảy ra là tại hẻm 327 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Lấy vị trí xe máy biển kiểm soát 47L1- 129.47 làm trung tâm hiện trường thấy: Cách 24,2m về hướng Nam là nhà anh Trần Đỗ N, tiếp giáp về hướng Đ là hẻm cụt, hướng Tây cách 2,5m là rẫy cà phê. Xe máy biển kiểm soát 47L1-129.47 nằm ngã trên đường bê tông rộng 4m hướng Bắc của đường dẫn vào thôn 7, xã C, thành phố B; hướng Nam của đường có 01 đường nhánh hướng Đ dẫn vào hẻm 327 Y, 01 nhánh hướng Nam dẫn vào đường 10 Tháng 3. Hội đồng khám nghiệm đã khám nghiệm và ghi nhận các dấu vết có liên quan.

- Khám nghiệm tử thi: Nạn nhân được gia đình và chính quyền địa phương xác nhận là Nguyễn Văn Đ.

+ Khám ngoài: Tử thi dài 150 cm (giới nam), thể trung bình. Tử thi mặc áo khoác màu xanh lá cây Grab. Tình trạng tử thi: Lạnh mềm xác. Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

Vết thương thứ nhất: Tại vùng gò má trái vết thương hình khe chéo vát trái trên, phải dưới góc nhọn bên phải dài 3,6cm, hở rộng 0,7cm, sâu 2,3cm tới xương hàm dưới trái, bờ mép sắc gọn. Dưới vết thương có vết xây xát da dài 2,3cm.

Vết thương thứ hai: Vết thương hình khe ở góc hàm dưới trái chéo vát hướng từ trước ra sau nằm ngang, góc nhọn phía sau trái dài 04cm, hở rộng 0,9cm, sâu 8,2cm, bờ mép sắc gọn, vết thương cách ụ ngồi 90cm, cách gót trái 130cm.

Vết thương thứ ba: Tại vùng cằm có vết thương hình khe dài 06cm, sâu 01cm hướng chéo vát từ trái sang phải bờ mép sắc gọn.

Vết thương thứ tư: Trước vai phải dài 3,5cm, hở rộng 0,9cm, sâu 1,2cm bờ mép sắc gọn, hướng từ trước ra sau, vết thương nằm dọc, góc nhọn phía dưới.

Vết thương thứ 5: Tại 1/3 trên trước ngoài cánh tay trái dài 5,5cm, hở rộng 1,6cm, sâu 7,5cm hướng từ trái sang phải.

Vết thương thứ 6: Tại 1/3 giữa sau cánh tay trái kích thước (5,5x1,8)cm bờ mép sắc gọn liên thông với vết thương thứ 7, vết thương chéo vát.

Vết thương thứ 7: Tại 1/3 dưới sau ngoài cánh tay trái kích thước (5,5x1,5)cm bờ mép sắc gọn thông với vết thương thứ 6, đường hầm hai vết thương dài 11,5cm, vết thương chéo vát.

Vết thương thứ 8: Nằm ngay sau khuỷu tay trái hình khe dài 06cm nằm chéo vát, sâu 1,7cm.

Vết thương thứ 9: Tại vùng vai phải cách cột sống lưng 10cm, cách bờ vai phải 10cm, dài 6,5cm, bờ mép sắc gọn, chéo vát phải trên trái dưới, vết thương hở rộng 1,3cm, sâu 8,5m hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước góc nhọn phía dưới.

Vết thương thứ 10: Tại vùng lưng trái cách cột sống lưng 08cm có vết thương dài 7,2cm dạng 3 cạnh sâu xuyên thấu bụng, bờ mép sắc gọn, hướng từ sau ra trước, từ dưới lên trên.

+ Mổ tử thi: Rạch da bộc lộ vết thương thứ 2 tại góc hàm trái làm đứt tĩnh mạch cảnh chung trái và mẻ một phần xương hàm trái. Bộc lộ vùng ngực, bụng thấy tụ máu quanh vết thương sụn sườn 10, khoang ngực hai bên sạch, 2 phổi nhạt màu, thủng cơ hoành trái dài 3,5cm. Buồng tim không chứa máu, thủng đại tràng. Dạ dày chứa ít dịch nhầy, niêm mạc xung huyết. Các cơ quan khác không phát hiện tổn thương.

Tại bản kết luận pháp y tử thi số 1049/ TT- C09 ngày 08/12/2020 của hòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: N nhân tử vong của Nguyễn Văn Đ là: Đa vết thương mặt, cổ, lưng, tay gây tổn thương tĩnh mạch cảnh, phổi, cơ hoành, đại tràng và nhiều tổ chức dưới da-cơ. Dẫn đến mất máu cấp và suy tuần hoàn không hồi phục. Vật tác động: Vật cứng có mũi nhọn, lưỡi sắc tác động trực tiếp vào mặt, cổ, lưng, tay nạn nhân.

Tại bản kết luận giám định số 824/C09B ngày 25/02/2021 của Viện khoa học hình sự tại T phố Hồ Chí Minh kết luận: Trên các mẫu vật gửi giám định gồm con dao cán nhựa màu đen, áo thun ngắn tay cổ tròn màu trắng, quần kaki màu xám và áo khoác dài tay màu đen (thu giữ của Lê Văn T) đều có dính máu người, phân tích ADN được một kiểu gen nam giới hoàn chỉnh trùng với ADN của tử thi Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1965, trú tại thôn Đồng Tâm, xã Dray Sáp, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 3663/KLĐG-HĐĐGTS ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk, kết luận: 01 xe mô tô biển số 47L1-129.47 có giá 7.000.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1117/GĐĐV- C09 ngày 25/12/2020 của hòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Dấu vân các mẫu cần giám định ký hiệu 1, 4, 5, 6, 7, 8, 10 không đủ yếu tố để tiến hành giám định. Dấu vân ký hiệu 2 của mẫu cần giám định trùng khớp với dấu vân trên ô “út trái” của mẫu so sánh M1; Dấu vân ký hiệu 3 của mẫu cần giám định trùng khớp với dấu vân trên ô “nhẫn trái” của mẫu so sánh M1; Dấu vân ký hiệu 9 của mẫu cần giám định trùng khớp với dấu vân trên ô “trỏ trái” của mẫu so sánh M1 (M1 là Nguyễn Văn Đ).

Tại bản kết luận giám định số 1118/KLGĐ- C09 ngày 16/12/2020 của hòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển số 47L1-129.47 có số khung, số máy không thay đổi.

Việc thu giữ, tạm giữ, xử lý đồ vật, tài liệu:

- Quá trình khám nghiệm hiện trường đã tạm giữ: 01 xe mô tô biển kiểm soát 47L1-129.47; 01 mũ bảo hiểm màu xanh trên có chữ Grap; 01 đôi dép nhựa màu vàng trên có số 9; 01 ví da màu nâu.

- Tạm giữ của Lê Văn T: 01 con dao dài 30cm, lưỡi dao dài 20,2cm, mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen; 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 áo thun ngắn tay cổ tròn màu trắng; 01 quần kaki lửng màu xám.

Ngày 04/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Vũ (đại diện gia đình bị hại): 01 xe mô tô biển kiểm soát 47L1-129.47; 01 mũ bảo hiểm màu xanh có chữ Grap; 01 đôi dép nhựa màu vàng trên có số 9; 01 ví da màu nâu.

Đối với chiếc mũ bảo hiểm của bị hại Nguyễn Văn Đ mà bị cáo T sử dụng, sau khi gây án bị cáo đã vứt trên đường bỏ trốn không xác định được địa điểm cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS - ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

- Áp dụng điểm g, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 40 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình về tội “Giết người”;

- Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/11/2020.

- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt cả hai tội buộc bị cáo Lê Văn T phải chấp hành hình phạt chung là Tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Bản án còn quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại,án phí xử lý tang vật và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại.

Trong hạn luật định bị cáo Lê Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn T, vẫn giữ nguyên nội dung đơn xin kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn xin kháng cáo của bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo,ý kiến người bào chữa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 03 giờ sáng ngày 12/11/2020, tại hẻm 327 đường Y, phường T, thành phố B bị cáo Lê Văn T đã sử dụng 01 con dao đã chuẩn bị từ trước đó, dao dài 30cm, lưỡi dao bằng kim loại, mũi dao sắc, nhọn đâm liên tiếp vào người ông Nguyễn Văn Đ là tài xế xe ôm mục đích để cướp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 47L1-129.47, hậu quả làm ông Đ tử vong trên đường đi cấp cứu.

Với hành vi nêu trên, Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Văn T về tội “ Giết người” và tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm g, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng pháp luật.

[2] Xét đơn kháng cáo của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tính mạng, tài sản của người khác trái pháp luật. Chỉ vì thiếu tiền tiêu xài cá nhân bị cáo đã bất chấp mọi thủ đoạn và chuẩn bị hung khí nguy hiểm, trước khi gặp bị hại bị cáo đã nảy sinh ý định giết người để cướp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nguy hiểm, thể hiện sự quyết liệt, tàn ác, cố ý thực hiện tội phạm đến cùng, dùng dao đâm liên tiếp gây ra 10 vết thương trên người bị hại dẫn đến tử vong. Hơn nữa, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về tội “Giao cấu với trẻ em” vừa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

Bản án sơ thẩm đã đánh giá tính chất mức độ của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đồng thời áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được hưởng để xử phạt bị cáo tử hình về tội giết người và 03 năm tù về tội cướp tài sản là thỏa đáng có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung trong toàn xã hội nói chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới cần được xem xét cho bị cáo được hưởng; do vậy đơn kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn T,giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS - ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản”.

- Áp dụng điểm g, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 40 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình về tội “Giết người”;

- Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/11/2020.

- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt cả hai tội buộc bị cáo Lê Văn T phải chấp hành hình phạt chung là Tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Lê Văn T có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2021/HS-ST ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người và cướp tài sản số 381/2021/HS-PT

Số hiệu:381/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về