Bản án về tội giết người trong vụ thảm sát 06 người ở Bình Phước số 45/2015/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 45/2015/HS-ST NGÀY 17/12/2015 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG VỤ THẢM SÁT 06 NGƯỜI Ở BÌNH PHƯỚC

Ngày 17 tháng 12 năm 2015, tại khu phố Trung Lợi, thị trấn Chơn Thành, huyện Chơn Thành (ngay Trung tâm hành chính huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước), Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2015/HSST ngày 03 tháng 11 năm 2015 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hải D, sinh ngày 01/02/1991 tại An Giang; HKTT: Ấp Long Hạ, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: Số 290/10, tổ 2, ấp 1, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Nguyễn Phú H, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Kim T, sinh năm 1970; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/7/2015 cho đến nay.

2. Vũ Văn T, sinh ngày 21/10/1991 tại Cà Mau; HKTT: Thôn Phú Nguyên, xã P, huyện B, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở hiện nay: Ấp 1, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 04/12; Nghề nghiệp: Thợ Mộc; Con ông Vũ Duy H, sinh năm 1958 và bà Vũ Thị M, sinh năm 1960; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ năm và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/7/2015 cho đến nay.

3. Trần Đình Th, sinh ngày 23/5/1988; HKTT: Ấp Tường Hưng, xã TH, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở hiện nay: Số 13, đường Phạm Văn Đồng, phường X, quận G, TP. Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Đầu bếp; Con ông Trần Hữu H (đã chết) và bà D Thị Kim L, sinh năm 1962; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2015 cho đến nay.

Những người bị hại (đều đã chết):

- Ông Lê Văn M, sinh năm 1967;

- Bà Nguyễn Lê Thị Ánh N, sinh năm 1973;

- Bà Lê Thị Ánh L, sinh năm 1993;

- Cháu Lê Quốc A, sinh năm 2000;

- Cháu Dư Ngọc Tố N, sinh năm 1997;

- Cháu Dư Minh V, sinh năm 2001;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Do thù tức việc bà Nguyễn Lê Thị Ánh N ngăn cản mối quan hệ tình cảm giữa Nguyễn Hải D với Lê Thị Ánh L và việc L nghe lời mẹ chia tay với D nên D đã nảy sinh ý định giết cả gia đình L để trả thù và cướp tài sản. Để thực hiện việc giết cả gia đình L, D đã chuẩn bị công cụ phạm tội gồm: 01 khẩu súng bắn bi, 01 khẩu súng điện, 01 con dao bấm, găng tay, dây rút và đã lợi dụng cháu Dư Minh V để phục vụ cho kế hoạch phạm tội của mình. Ngày 04/7/2015, D rủ Trần Đình Th đến nhà ông M với mục đích giết người rồi cướp tài sản, T đồng ý. D bàn bạc với Th về việc chuẩn bị công cụ phạm tội, kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội. Đến khuya cùng ngày D và Th đến nhà ông M, nhưng do cháu V không ra mở cửa, nên không thực hiện được hành vi giết người và cướp tài sản như theo kế hoạch đã bàn bạc, cả 2 bàn nhau đi về ngày hôm sau tiếp tục đến nhà ông M để gây án. Trên đường về, T bàn với D là Th sẽ mua thêm 01 con dao Thái Lan để ngày mai đi tiếp, thì D đồng ý. Đến tối ngày 05/7/2015, T đã mua 01 dao Thái Lan đưa cho D, nhưng sau đó nói bà ngoại bệnh nên không đi với D nữa. Ngày 06/7/2015. D rủ Vũ Văn T đi cướp tài sản. T đồng ý, D bàn bạc và cho T biết toàn bộ kế hoạch thực hiện tội phạm, các công cụ, phương tiện đã chuẩn bị. Vào khoảng 01 giờ ngày 07/7/2015,D và T đi vào khu vực nhà ông M, khi cháu V ra mở cửa thì Dương, T đã dùng tay khống chế bóp cổ, bị miệng cháu V đến bất tỉnh, D dùng dao đâm nhiều nhát làm cháu V tử vong. Tiếp đến, D và T trèo tường phía sau vào nhà ông M, khống chế trói Lê Thị Ánh L, Dư Ngọc Tố N, ông Lê Văn M, bà Nguyễn Lê Thị Ánh N và cháu Lê Quốc A. Sau đó T dùng dây siết cổ từng người và D dùng dao lần lượt đâm chết cháu A, bà N, ông M, chị N và chị L. Cùng với quá trình thực hiện hành vi giết người. D và T đã chiếm đoạt tài sản có giá trị 49.227.058 đồng (Bốn mươi chín triệu, hai trăm hai mươi bảy nghìn, không trăm năm mươi tám đồng) của gia đình ông M.Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên. Xét lời khai của các bị cáo là thống nhất với nhau và phù hợp lời khai của những người làm chứng về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội; ngoài ra còn phù hợp với vật chứng thu được của vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết luận giám địnhpháp y, đồng thời phù hợp với tất cả các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi công khai tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi mà các bị cáo Nguyễn Hải D, Vũ Văn T, Trần Đình Th thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo Điều 93 Bộ luật hình sự và tội “Cướp tài sản” theo Điều 133 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều là người đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, chỉ vì lý do bị ngăn cản trong chuyện tình cảm mà bị cáo Nguyễn Hải D đã chuẩn bị hung khí và rủ bị cáo T, Tiến đi giết người rồi cướp tài sản của họ, cùng một lúc các bị cáo đã tước đoạt mạng sống của 06 người trong 01 gia đình, trong đó có 02 nạn nhân là trẻ em,các bị cáo đã dùng dây trói tay và siết cổ, dùng khăn bị mắt và dùng súng chích điện các nạn nhân rồi sử dụng dao bấm, dao Thái Lan đâm vào tim các nạn nhân sau đó dùng dao đâm vào cổ và rạch ngang cổ các nạn nhân một cách man rợ, tàn bạo. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo D, Th, T về tội giết người với các tình tiết định khung“giết nhiều người; giết trẻ em; để thực hiện tội phạm khác; thực hiện tội phạm một cách man rợ;có tính chất côn đồ" theo quy định tại các điểm a, c, g, i, n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là có căn cứ, ngoài ra bị cáo D còn phải chịu thêm tình tiết định khung “vì động cơ đê hèn” theo điểm q khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhận định là phù hợp;do tài sản các bị cáo chiếm đoạt khi giết người có giá trị 49.227.058 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo về tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất hành vi, hậu quả mà các bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng và tài sản của những người bị hại là khách thể đặc biệt được luật hình sự ưu tiên bảo vệ bởi lẽ mạng sống của con người là bất khả xâm phạm không ai có quyền tước đoạt một cách trái pháp luật nhưng với thái độ côn đồ, hung hãn, bất chấp luân thường đạo lý các bị cáo đã cố tình tước đoạt mạng sống của những người bị hại một cách tàn nhẫn rồi chiếm đoạt tài sản của họ, cùng một lúc các bị cáo giết chết 06 người trong một gia đình, gây đau thương mất mát cho những người thân của nạn nhân mà không gì bù đắp nổi, ngoài ra còn gây xôn xao dư luận, bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng trừng trị, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Đây là vụ án mang tính chất đồng phạm, các bị cáo cùng có chung mục đích là giết người, cướptài sản. Tuy nhiên, cần xem xét, đánh giá vai trò của từng bị cáo khi quyết định hình phạt.Bị cáo Nguyễn Hải D vừa là kẻ tổ chức, chủ mưu, cầm đầu vừa là người thực hành, chính bị cáo đã chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội (súng, dao, dây dù, găng tay, băng keo), lên kế hoạch giết tất cả 6 người nhà ông M và chính bị cáo rủ rê, bàn bạc với Th, T để thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo dụ dỗ, lợi dụng cháu Dư Minh V mở cổng cho bị cáo vào nhà,chính bị cáo là kẻ trực tiếp dùng dao bấm và dao Thái Lan đâm chết 06 người, bị cáo phạm tội một cách quyết liệt, quyết tâm phạm tội đến cùng mặc dù trong quá trình phạm tội đã nhiều lần bị cáo T can ngăn nhưng bị cáo D vẫn quyết tâm phải giết hết 06 người trong gia đình nạn nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại các điểm a, c, g, i, n, q khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự như giết nhiều người, giết trẻ em, đểthực hiện hoặc che dấu tội phạm khác, thực hiện tội phạm một cách man rợ, có tính chất côn đồ và vì động cơ đê hèn.Đối với bị cáo Vũ Văn T tham gia với vai trò là người thực hành khi được D rủ đi cướp tài sản và bàn bạc kế hoạch giết người thì bị cáo đồng ý ngay và tích cực thực hiện, trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo tuy có ngăn cản D nhưng khi D nói lỡ rồi thì bị cáo tiếp tục làm theo sự chỉ dẫn của bị cáo D, chính bị cáo là kẻ khống chế và dùng dây siết cổ các nạn nhân để cho D dùng dao đâm chết 6 người. Hành vi của bị cáo đã phạm vào các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại các điểm a, c, g, i, n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự như giết nhiều người, giết trẻ em, để thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác, thực hiện tội phạm một cách man rợ và có tính chất côn đồ.Tại phiên tòa hôm nay bị cáo D, T thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; gia đình bị cáo T có ông nội, ông ngoại, bố đẻ có công với cách mạng nhưng xét hậu quả các bị cáo gây ra là quá lớn, các bị cáo thực hiện tội phạm với nhiều tình tiết định khung tăng nặng, thể hiện ác tính rất cao, không còn khả năng giáo dục, cải tạo. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt cao nhất,loại bỏ vĩnh viễn bị cáo Nguyễn Hải D và Vũ Văn T ra khỏi đời sống xã hội để trừng phạt các bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Đối với Trần Đình Th tham gia vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức về mặt vật chất, chính bị cáo đã cung cấp công cụ, phương tiện phạm tội là ba lô và dao Thái Lan cho bị cáo D,khi được bị cáo D rủ và bàn bạc kế hoạch, chuẩn bị công cụ phạm tội để đến nhà ông M Cướp tài sản sau đó sẽ giết chết 06 người trong gia đình ông M thì bị cáo đồng ý ngay và đêm ngày 04/7/2015 bị cáo cùng đi với D đến nhà ông M thực hiện kế hoạch giết người, cướp tài sản nhưng do V không ra mở cửa nên các bị cáo không thực hiện được và bị cáo đã mua thêm dao để đến đêm ngày 05/7/2015 tiếp tục thực hiện, đến chiều ngày 05/7/2015, tuy bị cáo từ chối không đi cùng D nữa nhưng vẫn tiếp tục giúp bị cáo D bằng cách mua thêm 01 con dao Thái Lan đưa cho bị cáo D. Vì vậy, bị cáo phải chịu chung hậu quả do bị cáo D gây ra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa hôm bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như lời khai của bị cáo Dương. Vì vậy, cần phải tuyên xử bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo một thời gian dài khỏi đời sống xã hội mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp cho những người bị hại là ông Nguyễn Lê V yêu cầu các bị cáo phải bồi thường toàn bộ chi phí mai táng phí cho 6 nạn nhân là: 50.000.000 đồng/1 người, tổng cộng chi phí mai táng phí là 300.000.000 đồng; chi phí tổn thất tinh thần là: 30.000.000 đồng/1 người, tổng cộng là 180.000.000 đồng. Tổng số tiền phía gia đình người bị hại yêu cầu các bị cáo phải bồi thường là 480.000.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp cho những người bị hại nên cần ghi nhận sự thỏa thuận của các bên.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:Tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng là công vụ phạm tội, đồ vật của gia đình người bị hại không còn giá trị sử dụng, bao gồm những vật chứng tại bản kê vật chứng phụ lục số 02 kèm theo.Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu vàng, số Imei 0139.6700.2322.084 thu giữ của bị cáo Nguyễn Hải D, 01 điện thoại di động hiệu ASUS màu đen, kèm theo trong máy có một sim điện thoại số 0938.744.xxx thu của bị cáo Vũ Văn T; 01 điện thoại di động màu đen hiệu Samsung, model GT- E2121B, mã số S/N: RGUB846577Z, đã bị vỡ phần vỏ, điện thoại không có thẻ sim thu giữ của bị cáo Trần Đình Th, được các bị cáo sử dụng để liên lạc trong quá trình thực hiện vụ án, còn giá trị sử dụng. Do đó, cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước. Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:Tuyên trả cho người đại diện hợp pháp của những người bị hại số tiền, tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt, được thu giữ trong quá trình điều tra theo bảng kê vật chứng tại bảng kê phụ lục số 03 kèm theo. Tuyên trả cho những người liên quan các đồ vật, tài sản thu giữ để phục vụ cho việc điều tra tại bảng kê vật chứng phụ lục số 04 kèm theo. Đối với số tiền 806.500 đồng thu giữ của bị cáo D, đây là số tiền còn lại từ số tiền 1.000.000 đồng bị cáo vay mượn của ông Nguyễn Phú H, cha ruột của bị cáo nên quản thủ để đảm bảo cho việc thi hành án. Riêng đối với xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại EXCITER, màu xanh, trắng, biển kiểm soát 59M-451.1x, số khung P10CY-1979xx, số máy 55P1-1979xx; 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 044183, mang tên Nguyễn Phú Bình cấp cho xe Exciter biển số 59M1-451.1x là xe bị cáo mua và nhờ ông Nguyễn Phú Bình là chú ruột của bị cáo đứng tên. Đây là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo, cần tạm giữ phương tiện cùng giấy đăng ký xe mô tô trên để đảm bảo thi hành án. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hải D về việc xem xét các tình tiết định khung quy định tại các điểm i, n, q khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận; về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng 02 tình tiết định khung quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự không được Hội đồng xét xử chấp nhận; quan điểm bào chữa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Trần Đình Th về việc bị cáo Th không đồng phạm với bị cáo D về tội “Giết người” và chỉ đồng phạm với bị cáo D về tội “Cướp tài sản” ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người bị hại đề nghị tuyên xử tử hình đối với hai bị cáo Nguyễn Hải D, Vũ Văn T là có căn cứ, được chấp nhận; đề nghị tuyên xử tử hình đối với bị cáo Trần Đình Th là không có căn cứ, không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.Án phí dân sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 8.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải D, Vũ Văn T, Trần Đình Th phạm các tội “Giết người”, “Cướp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng các điểm a, c, g, i, n, q khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 133; điểm p khoản 1 Điều 46;Điều 20; Điều 35; Điều 53 Bộ luật hình sự và Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải D hình phạt Tử hình về tội “Giết người” và 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội danh là Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng các điểm a, c, g, i, n khoản 1 Điều 93; khoản 1 Điều 133; điểm p khoản 1; khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 35; Điều 53 Bộ luật hình sự và Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự; Xử phạt bị cáo Vũ Văn T hình phạt Tử hình về tội “Giết người” và 07 (bảy) năm tù về tội“Cướp tài sản”. Áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là Tử Hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Áp dụng các điểm a, c, g, i, n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 133; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33; Điều 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Đình Th 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người” và 3 (ba) năm tù về tội"Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/8/2015.

3. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 604, 605, 606 Bộ luật dân sự Ghi nhận sự thỏa thuận giữa người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp cho những người bị hại và các bị cáo.Buộc các bị cáo có trách nhiệm bồi thường chung cho những người đại diện hợp pháp của những người bị hại tổng số tiền 480.000.000 đồng, tương đương mỗi bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của người bị hại tổng số tiền là 160.000.000 (một trăm sáu mươi triệu đồng).Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu Thi hành án nếu chậm thi hành khoản tiền bồi thường thì hàng tháng người có nghĩa vụ thi hành án còn phải chịu thêm số tiền lãi của số tiền bồi thường chưa thi hành theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyđịnh tương ứng với thời gian chậm thi hành.

"Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng là công cụ phạm tội, đồ vật của gia đình người bị hại không còn giá trị sử dụng, bao gồm những vật chứng tại bản kê vật chứng phụ lục số 02 kèm theo.Tịch thu, sung quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu vàng, số Imei 0139.6700.2322.084 thu của bị cáo Nguyễn Hải D, 01 điện thoại di động hiệu ASUS màu đen, kèm theo trong máy có một sim điện thoại số 0938.744.xxx thu của bị cáo Vũ Văn T; 01 điện thoại di động màu đen hiệu Samsung, model GT- E2121B, mã số S/N: RGUB846577Z, đã bị vỡ phần vỏ, điện thoại không có thẻ sim thu giữ của bị cáo Trần Đình Th.

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên trả cho người đại diện hợp pháp của những người bị hại số tiền, tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt, thu trong quá trình điều tra theo bảng kê vật chứng tại bảng kê phụ lục số 03 kèm theo.Tuyên trả cho những người liên quan các đồ vật, tài sản thu giữ để phục vụ cho việc điều tra tại bảng kê vật chứng phụ lục số 04 kèm theo.Tuyên tạm giữ số tiền 806.500 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA số loại EXCITER, màu xanh - trắng, biển kiểm soát 59M-451.1x, số khung P10CY-1979xx, số máy 55P1-1979xx; 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0441xx, mang tên Nguyễn Phú Bình cấp cho xe Exciter biển số 59M1-451.1x để đảm bảo thi hành án.

5. Về án phí và quyền kháng cáo:

Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Hải D, Vũ Văn T, Trần Đình Th, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng;Án phí dân sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 8.000.000 đồng.Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; các bị cáo, những người đại diện hợp pháp cho những người bị hại, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

543
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người trong vụ thảm sát 06 người ở Bình Phước số 45/2015/HS-ST

Số hiệu:45/2015/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/12/2015
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về