TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 08/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
Ngày 08 tháng 11 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với:
Bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th (tên gọi khác: M), sinh ngày 02/4/1969, tại Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Khu phố N, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo:
Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị A (cả hai đều chết); chồng Nguyễn Đạo L, sinh năm 1969 (đã chết); có 01 con (sinh năm 1999).
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th: Bà Dương Thị L - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị, có mặt.
* Bị hại: Ông Nguyễn Đạo L, sinh năm 1969 (đã chết) Địa chỉ: Khu phố N, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
- Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1945 (là mẹ của bị hại);
Địa chỉ: Thôn Thống Nh, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm 1963 (chị ruột bị cáo Th) Địa chỉ: Khu phố N, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
* Người làm chứng:
- Chị Đoàn Linh D, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Số Tr, khu phố N, phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Đạo L và Nguyễn Thị Xuân Th là vợ chồng từ năm 1998. Quá trình chung sống, ông L thường xuyên uống rượu, bia say xỉn rồi gây gổ, chửi bới, đánh đập bà Th. Mỗi lần bị ông L đánh đập gây thương tích, Th cùng con trai phải chạy qua nhà người thân, hàng xóm để tránh.
Vào tháng 3 năm 2007 và tháng 3 năm 2012, Th đã 2 lần nộp đơn khởi kiện để xin ly hôn với lý do vì ông L thường xuyên đánh đập, hành hung Th trong suốt quá trình sinh sống. Nhưng sau đó cả hai lần đều được Toà án hòa giải, đoàn tụ tiếp tục hôn nhân.
Khoảng 4 năm đến 5 năm trở lại đây, Th bị bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn thần cấp và nhất thời, rối loạn thần không thực tổn khác, rối loạn hành vi và đã đi điều trị nhiều lần tại các cơ sở y tế.
Ngày 30/11/2021, Th lại tiếp tục bị ông L đánh phải nhập viện, điều trị do bị gãy xương đầu dưới cả xương trụ và xương quay, gãy đầu dưới xương trụ trái.
Khoảng hơn 20 giờ 00 ngày 11/3/2022, khi bị cáo Th đang ở nhà, thấy ông L đi xe mô tô về và lấy chai bia trong cốp xe mô tô đem vào nhà. Sau khi ra khoá cổng và khoá cửa chính vào, Th thấy ông L ngồi trên ghế ở vị trí bàn inox tại phòng khách để uống bia, máy điện thoại của ông L để trên bàn. Th lấy máy điện thoại rồi vào ứng dụng Messenger Facebook “L Nguyễn” (Facebook của ông L) gọi điện đến Facebook “Hoa Nguyễn” của bà Nguyễn Thị Xuân H (chị ruột của bà Th) ở tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi Th đang nói chuyện với bà H thì ông L vừa ngồi uống bia vừa nói chuyện với Th về việc ông L có mượn anh Nguyễn Sỹ D (anh trai bà Th ở phường H, thành phố Q, tỉnh Bình Định) số tiền 200.000 đồng thì Th nói với ông L là “anh là đại gia tiền tỷ mà đi mượn tiền”. Lúc này ông L nghe vậy liền đứng dậy chửi, gây gổ với Th. Nghe thấy ông L và Th lại gây gổ nhau, nên bà H tắt máy không nói chuyện nữa. Ông L tiếp tục gây gổ, chửi bới rồi dùng tay trái đánh một cái trúng vào đầu Th. Sợ bị đánh tiếp nên Th bỏ chạy xuống dưới bếp, ông L đuổi theo đòi đánh nên Th lấy 01 con dao bằng kim loại màu trắng, chiều dài 37,5cm, cán dao hình trụ tròn dài 16,5cm, lưỡi dao dài 21cm, mũi dao nhọn, đang để ở trên kệ chén bát, Th cầm dao ở tay phải rồi chạy vào phòng vệ sinh tiếp giáp phòng bếp, đóng cửa lại để trốn. Do cửa phòng vệ sinh bằng nhựa, đã cũ, chốt cửa phòng vệ sinh bị hư hỏng, lề cửa chỉ được buộc sơ sài nên Th dùng người chèn ở phía sau cánh cửa, giữ cửa nhằm không cho ông L vào. Ông L không vào được nên đứng bên ngoài chửi bới, đe doạ rồi dùng tay, chân xô đẩy cửa phòng vệ sinh, làm cho cánh cửa sập vào sát cạnh tường bên trong phòng vệ sinh. Khi cửa vừa sập, ông L liền nhào người tới để đánh bà Th, lúc này bị cáo Th đang cầm dao bằng tay phải và đã có hành vi đâm một phát trúng vào vị trí ngực bên trái của ông L. Thấy máu chảy ra từ người ông L, Th liền rút dao ra, ông L đi lùi lại hai bước rồi nằm gục xuống nền nhà bếp ngay trước cửa phòng vệ sinh.
Hoảng sợ, bà Th chạy ra phòng khách đặt con dao lên trên bàn inox, rồi mở cửa nhà, mở cổng chạy đến trước nhà chị Đoàn Linh D (có chồng tên C) kêu to “C ơi, C ơi chị giết chồng chị rồi”. Chị D ở trong nhà, nghe Th kêu nên ra hỏi “có chuyện gì vậy” thì Th bảo “chị đâm chết chồng chị rồi”. Nghe vậy thì chị D đi ra hô hoán rồi cùng với một số người hàng xóm đến kiểm tra thì thấy ông L đã nằm gục trên nền nhà, chị D gọi điện cho chồng mình là anh Nguyễn Quốc C để thông báo cho Công an phường N, thành phố Đ đến xử lý vụ việc.
Tại bản Kết luận giám định số 305/KL - C09C(Đ1) ngày 31/3/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Trên con dao bằng kim loại, màu trắng Th được tại phòng khách ở hiện trường không phát hiện có dấu vết đường vân.
Tại bản Kết luận giám định số 466/KL - KTHS ngày 09/5/2022 của Phòng Kỹ Thật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: Con dao Th giữ tại hiện trường gửi đến giám định tạo ra được dấu vết trên vùng ngực tử thi của ông Nguyễn Đạo L được ghi nhận, mô tả trong biên bản khám nghiệm tử thi lập ngày 12/3/2022. Dấu vết được hình thành theo chiều hướng từ trái qua phải, từ trước ra sau, từ dưới lên trên.
Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 490/KLGĐ ngày 28/4/2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền Trung kết luận:
+ Về y học: Tại thời điểm gây án và thời điểm hiện tại bị can Th bị tâm thần phân liệt thể Paranoid tiến triển liên tục.
+ Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm gây án và thời điểm hiện tại bị can Th bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Cáo trạng số 38/CT-VKS-P2 ngày 30/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị truy tố Nguyễn Thị Xuân Th về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.
Căn cứ khoản 1 Điều 125; điểm b, i, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
* Tịch Th tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 cây dao bằng kim loại, màu trắng sáng chiều dài 37,5cm, phần cán dao hình trụ tròn dài 16,5cm, lười dao dài 21cm, nơi rộng nhất 3,7cm, mũi dao nhọn, trên lười dao có bám dính chất màu nâu đỏ.
- Mẫu chất màu nâu đỏ còn lại sau giám định.
* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th (Theo yêu cầu bị cáo):
- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đỏ, đen, bên trong gắn 01 sim Viettel có số seri 8984048000324452875, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy;
- 01 đôi dép, dạng dép lỗ, màu hồng, dưới đế dép có dập nổi chữ số “39; HP- 610” trên dép có bám dính chất màu nâu đỏ;
- 01 áo vải dài tay, màu xanh nhạt, có sọc trắng đen, chiều dài từ cổ áo đến hết thân áo là 82cm, vai áo rộng 49cm;
- 01 quần dài bằng vải màu tím, có hoa văn nhiều màu, dài 89,5cm, cạp quần có dây chun rộng 31cm, ống quần ở phần cuối rộng 17cm;;
- 01 áo bằng vải ngắn tay, màu xanh cổ tròn, có hoa văn nhiều màu, mặt trước có 3 cúc áo màu vàng, chiều dài thân áo ở phía sau là 56,3cm.
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 125; điểm b, i, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th mức hình phạt bằng với thời hạn đã tạm giam, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
* Bị cáo nói lời sau cùng: Mong HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Trị, Điều tra viên, VKSND tỉnh Quảng Trị, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Trong thời gian dài sống chung vợ chồng, bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th thường xuyên bị chồng là ông Nguyễn Đạo L mỗi lần đi uongs rượu, bia về là chửi bới, đánh đập dẫn đến tinh thần bị dồn nén, ức chế tâm lý lâu ngày, thậm chí bà Th phải nhập viện điều trị do bị ông L đánh, gây thương tích.
Khoảng 20 giờ, ngày 11/3/2022, bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th đang ở nhà, thì ông Nguyễn Đạo L đi xe máy về và lấy chai bia trong cốp xe máy đem vào nhà ngồi uống, một lúc sau thì ông L có hành vi gây gỗ, chửi bới bà Th, ông L dùng tay đánh vào đầu bà Th, rồi rượt đuổi để đánh tiếp. Mặc dù bà Th đã bỏ chạy vào phòng tắm để trốn, nhưng ông L vẫn phá cửa xông để đánh tiếp bà Th. Dẫn đến bà Th đã sử dụng con dao bằng kim loại đâm một nhát thẳng về phía người ông L trúng vào vị trí ngực bên trái, hậu quả ông L tử vong.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th đã phạm vào tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Hình sự, Cáo trạng số 38/CT-VKS-P2 ngày 30/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Th là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy:
Bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th đã có hành vi dùng dao đâm một nhát vào ngực trái của ông L, tước đoạt tính mạng của chồng mình. Thời điểm gây án, tinh thần của bị cáo bị dồn nén, ức chế tâm lý lâu ngày, bị cáo là người bị bệnh tâm thần phân liệt thể Paranoid tiến triển liên tục, bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng của bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo trong một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại với số tiền 10.000.000 đồng; bị cáo là người Thộc diện khuyết nặng (có quyết định của cơ quan Nhà nước để được hưởng chính sách trợ cấp xã hội đối với người bị khuyết tật). Tại thời điểm gây án bị cáo Th được kết luận về y học: Tâm thần phân liệt thể Paranoid tiến triển liên tục; về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; gia đình bị hại đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Th. Vì vậy, cần áp dụng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. [5] Về dân sự:
Sau khi phạm tội, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho gia đình bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm, nên HĐXX không xem xét.
[6] Về xử lý các vật chứng: Tại phiên tòa, bị cáo Th xin được nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đỏ, đen; 01 đôi dép, dạng dép lỗ, màu hồng, dưới đế dép có dập nổi chữ số “39; HP-610”, trên dép có bám dính chất màu nâu đỏ; 01 áo vải dài tay, màu xanh nhạt, có sọc trắng đen, chiều dài từ cổ áo đến hết thân áo là 82cm, vai áo rộng 49cm; 01 quần dài bằng vải màu tím, có hoa văn nhiều màu, dài 89,5cm, cạp quần có dây chun rộng 31cm, ống quần ở phần cuối rộng 17cm; 01 áo bằng vải ngắn tay, màu xanh cổ tròn, có hoa văn nhiều màu, mặt trước có 3 cúc áo màu vàng, chiều dài thân áo ở phía sau là 56,3cm.
Vì vậy, HĐXX quyết định:
* Cần tịch Th tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 cây dao bằng kim loại, màu trắng sáng chiều dài 37,5cm, phần cán dao hình trụ tròn dài 16,5cm, lười dao dài 21cm, nơi rộng nhất 3,7cm, mũi dao nhọn, trên lười dao có bám dính chất màu nâu đỏ.
- Mẫu chất màu nâu đỏ còn lại sau giám định.
* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th:
- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đỏ, đen, bên trong gắn 01 sim Viettel có số seri 8984048000324452875, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy;
- 01 đôi dép, dạng dép lỗ, màu hồng, dưới đế dép có dập nổi chữ số “39; HP- 610” trên dép có bám dính chất màu nâu đỏ;
- 01 áo vải dài tay, màu xanh nhạt, có sọc trắng đen, chiều dài từ cổ áo đến hết thân áo là 82cm, vai áo rộng 49cm;
- 01 quần dài bằng vải màu tím, có hoa văn nhiều màu, dài 89,5cm, cạp quần có dây chun rộng 31cm, ống quần ở phần cuối rộng 17cm;;
- 01 áo bằng vải ngắn tay, màu xanh cổ tròn, có hoa văn nhiều màu, mặt trước có 3 cúc áo màu vàng, chiều dài thân áo ở phía sau là 56,3cm.
[7] Cần ra Quyết định tạm giam đối với bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th để đảm bảo công tác thi hành án.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 125; điểm b, p, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Xuân Th 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/3/2022).
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
* Tịch Th tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 cây dao bằng kim loại, màu trắng sáng chiều dài 37,5cm, phần cán dao hình trụ tròn dài 16,5cm, lười dao dài 21cm, nơi rộng nhất 3,7cm, mũi dao nhọn, trên lười dao có bám dính chất màu nâu đỏ.
- Mẫu chất màu nâu đỏ còn lại sau giám định.
* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th:
- 01 điện thoại di động hiệu Realme màu đỏ, đen, bên trong gắn 01 sim Viettel có số seri 8984048000324452875, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy;
- 01 đôi dép, dạng dép lỗ, màu hồng, dưới đế dép có dập nổi chữ số “39; HP- 610” trên dép có bám dính chất màu nâu đỏ;
- 01 áo vải dài tay, màu xanh nhạt, có sọc trắng đen, chiều dài từ cổ áo đến hết thân áo là 82cm, vai áo rộng 49cm;
- 01 quần dài bằng vải màu tím, có hoa văn nhiều màu, dài 89,5cm, cạp quần có dây chun rộng 31cm, ống quần ở phần cuối rộng 17cm;;
- 01 áo bằng vải ngắn tay, màu xanh cổ tròn, có hoa văn nhiều màu, mặt trước có 3 cúc áo màu vàng, chiều dài thân áo ở phía sau là 56,3cm.
Những vật chứng này được niêm phong trong 01 hộp giấy niêm phong, bên ngoài có giấy niêm phong, có chữ ký, họ tên của Nguyễn Tiến Th, Nguyễn Văn Đ và hình dấu của Phòng kỹ Thật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị (Kèm theo kết luận giám định số 466/KL-KTHS ngày 09/5/2022 của Phòng kỹ Thật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị) và 01 hộp giấy niêm phong, bên ngoài có dán giấy niêm phong màu trắng, trên giấy có hình dấu của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng (Kèm theo kết luận giám định số 298/KL-C09 (DD3) ngày 31/3/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng).
(Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/10/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Trị và Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị).
4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thị Xuân Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh số 37/2022/HS-ST
Số hiệu: | 37/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về