TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN SỐ 98/2023/HS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: H M Niê; Sinh ngày: 03/05/1969, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú:
Buôn B, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Ê đê; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y H A yun (Đã chết) và con bà H P Niê, sinh năm: 1935; bị cáo có chồng tên là Y M1 Ayun, sinh năm: 1968, có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Y K Niê, sinh năm 1996 (đã chết).
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Chị H’ L M, sinh năm 1999, trú tại: buôn B, xã K, huyện C, tỉnh Đắk Lắk và ông Y M1 Ayun, sinh năm 1968, trú tại: Buôn B, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, đều có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Y M1 Ayun: Anh Y K1 Niê, sinh năm 1993, trú tại: Buôn H, xã M, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người phiên dịch: Ông Y S Êban, nhân viên Văn phòng luật sư K; địa chỉ: 306 đường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Y K Niê là con trai của bà H M Niê và ông Niê Y M1 Ayun, Y K sống cùng bố mẹ nhưng lười lao động, thường xuyên tụ tập ăn nhậu cùng bạn bè. Để có tiền ăn nhậu, Y K nhiều lần cầm cố xe môtô, xin tiền bà H M Niê, khi bà H M Niê không cho tiền thì Y K chửi bới, doạ đánh bà H M Niê. Vào ngày 03/3/2023, Y K xin tiền bà H M Niê để đi ăn nhậu cùng bạn bè thì bà H M Niê không đồng ý, lúc này, Y K chửi bới, dùng 01 cái cuốc đe doạ sẽ đánh đập bà H M nên bà H M phải đưa cho Y K 500.000đ.
Sau khi xin được tiền, khoảng 08 giờ sáng ngày 04/3/2023, Y K điều khiển xe mô tô hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát BKS 47H1-744.xx đi ăn nhậu cùng bạn bè. Đến khoảng 02 giờ ngày 05/3/2023, sau khi đi nhậu say về, Y K tiếp tục chửi bới bà H M, đòi bà H M cho 5.000.000đ và nói “đưa tiền đây để đi giải quyết chuyện với bạn bè”, khi bà H M nói không có tiền thì Y K nói “gọi cho Y K1 (anh trai Y K) đi, con sẽ giết hắn, sợ thằng K1 không có ai nuôi vợ con thôi, còn tôi thì tôi không sợ ai hết, tôi không có vợ con gì cả” rồi Y K đi vào phòng nằm ngủ trên nệm. Lúc này, bà H M đi xuống bếp nấu cơm, bực tức vì bị Y K nhiều lần chửi bới mình và dọa giết Y K1 nên bà H M đi vào phòng ngủ, lấy 01 cái búa, có cán bằng gỗ, phần đầu búa bằng kim loại, kích thước (13x5x5)cm, giữa cán búa có ghi “STS3kg”. Sau đó, H M đi đến cạnh chỗ Y K nằm ngủ, H M dùng búa đánh 01 cái trúng vào vùng sau đầu của Y K, thì Y K nằm ngửa người ra, H M tiếp tục dùng 02 tay cầm búa đánh 01 nhát trúng vào vùng ngực của Y K thì thấy Y K động đậy, nghiêng người, lúc này H M tiếp tục đánh liên tiếp nhiều cái vào lưng của Y K đến khi Y K không còn động đậy thì dừng lại. H M cởi áo khoác có dính máu trên người Y K rồi đem theo chiếc búa vào phòng ngủ cất giấu. Sau khi kiểm tra xác định Y K đã chết, H M gọi điện cho các con là Y K1 Niê, H S Niê và một số người thân thông báo Y K đã tử vong do té xe. Tuy nhiên, đến ngày 07/3/2023 nhận thấy hành vi của mình là sai trái H M Niê đã ra đầu thú tại Công an xã T.
Tại bản Kết luận giám định số 335 ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Nguyên nhân tử vong của Y K Niê là chấn thương ngực gây nên gãy xương ức, gãy nhiều xương sườn, thủng phổi, rách tim, dẫn đến suy tuần hoàn không hồi phục. Trên tử thi có các thương tích kèm theo tại phần mềm vùng đầu, bả vai và giữa lưng.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
Tại Bản cáo trạng số: 100/CT-VKS-P2 ngày 12/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo H M Niê, về tội: “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 của Bộ luật hình sự.
Kết quả xét hỏi tại phiên toà bị cáo H M Niê đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Phân tích và chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và khẳng định hành vi của bị cáo H M Niê đã phạm tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 của Bộ luật hình sự; đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo H M Niê phạm tội: “Giết người”.
Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo H M Niê mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cái búa và 01 áo khoác màu xám của Y K Niê là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
Bị cáo H M Niê không tranh luận, bào chữa gì thêm.
Qua tranh luận, đối đáp, đại diện Viện kiểm sát, bị cáo vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày trên. Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo H M Niê tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[3] Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Y K Niê là con trai của bị cáo H M Niê và ông Y M1 Ayun, Y K sống cùng bố mẹ nhưng lười lao động, thường xuyên tụ tập ăn nhậu cùng bạn bè. Để có tiền ăn nhậu, Y K nhiều lần cầm cố xe môtô, xin tiền bà H M Niê, khi bà H M Niê không cho tiền thì Y K chửi bới, doạ đánh bà H M Niê. Khoảng 03 giờ ngày 05/3/2023 tại khu vực phòng ngủ của gia đình H M Niê, sau khi đi nhậu về Y K Niê nói H M Niê đưa cho Y K 5.000.000 đồng để đi chơi với bạn bè, nếu không sẽ bán xe 47H1-744.xx để có tiền đi chơi và dọa sẽ giết cả nhà Y K1 Niê (là anh trai của Y K) nếu H M Niê không đi mượn tiền. Do bực tức và bị dồn nén lâu ngày về hành vi của Y K Niê nên lợi dụng lúc Y K Niê đang ngủ say, H M Niê đã dùng cây búa (dạng búa tạ) đánh nhiều cái vào đầu, ngực, lưng của Y K. Đây là những vùng trọng yếu của cơ thể, việc bị cáo dùng búa đập nhiều cái vào đầu, ngực, lưng của bị hại nhằm tước đoạt tính mạng của bị hại. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức và thấy trước hành vi của bị cáo có khả năng dẫn đến hậu quả chết người và hậu quả anh Y K Niê đã tử vong. Do đó, hành vi của bị cáo H M Niê thực hiện đã phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
.......
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;
[4] Bị cáo là người có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo biết được rằng tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý và được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác đều sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an chung của xã hội. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã gây ra. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo. Như vậy mới đảm bảo được việc cải tạo, giáo dục bị cáo và đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; quá trình điều tra bị cáo H M Niê đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; đã cùng gia đình lo chi phí mai táng cho bị hại và được người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.
[6] Về bồi thường thiệt hại: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Tòa án không đặt ra để xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cái búa và 01 áo khoác màu xám của Y K Niê là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo H M Niê bị tuyên là có tội nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo H M Niê phạm tội: “Giết người”.
2. Về hình phạt: Áp dụng: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo H M Niê 04 (bốn) năm tù về tội: “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam, ngày 07/3/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 cái búa tạ cấu tạo gồm 02 phần: phần cán tay cầm bằng gỗ và phần đầu búa, chiều dài từ đầu cán tay đến đầu búa là 35cm, chiều rộng đầu búa là 13cm bằng kim loại và 01 áo khoác màu xám có nhãn hiệu Slymfitbestcollection, đã cũ là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng.
(Vật chứng có đặc điểm cụ thể như Biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 14/7/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk và Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo H M Niê phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 98/2023/HS-ST
Số hiệu: | 98/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về