Bản án về tội giết người số 98/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 98/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 78/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

Nguyễn Duy P (tên gọi khác T), sinh năm 1988 tại Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Nơi đăng ký thường trú: phường Tam P, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trình độ văn hoá (học vấn): 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1957 và bà Trần Thị H, sinh năm 1958; Bị cáo có vợ là chị Lê Thị N1, sinh năm 1990 và có 02 con: Con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13/9/2020 - Có mặt;

Người bào chữa theo luật định cho bị cáo: Ông Hà Mạnh T1 - Luật sư của Văn phòng luật sư Hà Mạnh T1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai - Có mặt;

Địa chỉ: phường Trảng D, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Bị hại: Anh Huỳnh Thanh T2, sinh năm 1992 (đã chết);

- Người đại diện hợp pháp của bị hại gồm:

+ Chị Ka P, sinh năm 1995 – Vợ của bị hại - Có mặt;

+ Ông Huỳnh Văn T3, sinh năm 1959 – Cha ruột của bị hại - Có mặt;

+ Bà La Thị Kim L, sinh năm 1960– Mẹ ruột của bị hại - Có mặt;

Cùng địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Hồng T4, sinh năm 1997 – Vắng mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh La Kiến L1, sinh năm 1964 - Có mặt;

Địa chỉ: xã Long H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

3. Anh Lê Minh S, sinh năm 1994 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Văn T5, sinh năm 1968 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

2. Chị Lê Thị N1, sinh năm 1990 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

3. Bà Lê Thị P, sinh năm 1969 – Vắng mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

4. Anh Phạm Hữu H1, sinh năm 1975 - Có mặt;

Địa chỉ: phường Long Bình T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

5. Anh Dương Quốc H2, sinh năm 1996 – Vắng mặt;

Địa chỉ: xã Long H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

6. Anh Trần Minh T6, sinh năm 1980 - Có mặt;

Địa chỉ: xã Long H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

7. Anh Nguyễn Phú Q, sinh năm 1982 – Vắng mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

8. Bà La Thị Kim M, sinh năm 1960 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

9 Anh La Kiến D, sinh năm 1972 - Có mặt;

Địa chỉ: xã Long H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

10. Anh Đặng Thanh L2, sinh năm 1991 - Có mặt;

Địa chỉ: phường An B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

Địa chỉ liên lạc: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 13/9/2020, do mới mua xe mô tô nên Huỳnh Thanh T2 tổ chức tiệc mừng tại nhà của cha mẹ T2 ở khu phố 1, phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Sau khi ăn nhậu đến khoảng 15 giờ cùng ngày, T2 cùng với ông Lê Văn T5 ngụ tại: phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Lê Hồng T4 (là anh họ của anh T2) và Trần Minh Tâm (là dượng của T2) rủ nhau chơi đánh bài “cào dùa” ăn tiền. Do ông T5 đánh bài thua phải nợ tiền T2 và Lê Hồng T4 nên giữa ông T5 phát sinh mâu thuẫn cãi nhau với T2 và Lê Hồng T4. Thấy vậy, Lê Thị N1 (là con ông T5) cũng đến tham gia cãi nhau với T2, Lê Hồng T4 và mấy người trong gia đình T2.

Trong lúc hai bên đang cãi nhau thì bị cáo Nguyễn Duy P (là chồng của N1) chạy xe mô tô đến nhìn thấy T2 dùng tay định đánh N1 nên bị cáo P xông vào can ngăn. Thấy vậy, T2 liền dùng tuýp sắt đuổi đánh trúng 01 cái vào người bị cáo P nhưng không gây thương tích, còn Lê Hồng T4 chạy vào nhà lấy hai con dao (loại dao Thái Lan và dao gọt trái cây) cầm trên hai tay hù dọa, đuổi đánh bị cáo P làm P bỏ chạy vào nhà dân gần đó đóng cửa trốn nên T2 và Lê Hồng T4 bỏ về. Sau đó, Lê Hồng T4 ngồi nhậu với bạn gần nhà tên Nguyễn Phú Q, còn T2 gọi điện thoại cho Dương Quốc H2, ngụ tại: xã Long H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai rủ đi uống cà phê nhưng khi đến gần trước hẻm nhà ông T5 thì gặp anh Lê Minh S (là em vợ của bị cáo P) nên T2 hỏi anh S “Anh rể mày đâu rồi?”, anh S trả lời “Đang ở trong nhà”. Vì tưởng nhầm nhóm T2 đến để đánh nhau với anh rể mình (P) nên anh S la lớn “Anh Hai ơi, tụi nó ra đông lắm”. Nghe vậy, bị cáo P đang ở trong nhà ông T5 liền chạy ra phía hông nhà lấy một con dao rựa (cán bằng gỗ dài khoảng 01m, có bản rộng 10cm, một mặt cắt) và một con dao bấm bằng kim loại (chiều dài khi mở dao khoảng 20cm, một mặt cắt, sắc, nhọn) bỏ trong túi quần xông ra đánh nhóm T2 nhưng bị vợ và cha mẹ vợ ngăn cản, tước con dao rựa bị cáo P đang cầm trên tay vứt bỏ đi, bị cáo P vùng thoát ra tiếp tục lấy dao bấm có sẵn trong túi quần xông tới nhóm T2 để đánh nhau. Nhìn thấy bị cáo P, T2 dùng một ống tuýp sắt dài khoảng 01m lao tới đánh bị cáo P nhưng không trúng thì bị bị cáo P dùng dao bấm đâm 01 nhát trúng vào vùng ngực trái làm T2 tử vong. Đến 17 giờ cùng ngày, bị cáo Nguyễn Duy P đến Công an phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 20 giờ 30 phút ngày 13/9/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại đường Nguyễn Thiện T, khu phố x, phường An H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 2217/KLGĐ-PC09 ngày 23/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định thương tích và nguyên nhân Huỳnh Thanh T2 tử vong như sau:

- Dấu hiệu chính: Bên ngoài thấy vết rách da hình bầu dục kích thước 3cm x 1,5cm cách 3cm trên nếp lằn nách phía trước bên trái. Bên trong rách và tụ máu khe liên sườn; khoang lồng ngực trái chứa đầy máu loãng; rách thùy trên phổi trái; rách thành phía trước động mạch vai dưới.

- Nguyên nhân tử vong: Sốc mất máu do vết thương vùng ngực rách động mạch vai dưới, rách thùy phổi.

- Cơ chế thương tích: Nạn nhân bị thương tích bởi vật sắc nhọn đâm vào vùng ngực trái, xuyên vào khoang lồng ngực gây rách động mạch vai dưới dẫn tới mất khối lượng tuần hoàn lớn và tử vong.

Tại Kết luận giám định số 5126/C09B ngày 11/11/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất màu nâu đỏ dính trên con dao (dạng dao bấm) gửi giám định là máu người. Kiểu gen của mẫu máu này trùng với kiểu gen của nạn nhân Huỳnh Thanh T2.

Vật chứng thu giữ:

- 01 USB có dữ liệu liên quan đến vụ án.

- 01 dao rựa dài khoảng 01 mét (cán dao bằng gỗ màu đen, dài 60cm; bản dao bằng kim loại màu đen dài 40cm, bản rộng 10cm).

- 01 con dao (loại dao bấm) dài khoảng 20cm, cán dao ốp nhựa màu vàng đen, đầu dao nhọn dài khoảng 09cm, một bên hông dao sắc bén.

- 02 chiếc dép xỏ ngón chân phải, trái màu đen kích thước 26cm x 11cm.

- 01 chiếc dép màu đen hiệu Asia kích thước 29cm x 11,5cm.

- 01 tuýp sắt dài 78,5cm, đường kính 2,5cm.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại Huỳnh Thanh T2 yêu cầu bồi thường chi phí viện phí, mai táng số tiền 97.755.000đ (Chín mươi bảy triệu, bảy trăm năm mươi năm nghìn đồng) và tiền hỗ trợ chi phí nuôi 02 con bị hại là cháu Huỳnh Đăng Khoa sinh ngày 29/11/2017 và cháu Huỳnh Trâm Anh sinh ngày 10/12/2019 đến năm 18 tuổi, đồng thời bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.

Đại diện gia đình bị cáo Nguyễn Duy P đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).

Tại Cáo trạng số 3766/CT-VKS-P2 ngày 11/6/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy P về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và khẳng định cáo trạng truy tố là đúng, không có oan sai, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội "Giết người" theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, đề nghị xử bị cáo mức án từ 16 năm đến 18 năm tù và buộc bồi thường theo quy định của pháp luật.

- Luật sư bào chữa theo luật định cho bị cáo trình bày: Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội "Giết người" là có căn cứ. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Bị cáo chỉ đâm bị hại 01 nhát, gia đình bị cáo đã bồi thường một phần cho gia đình bị hại, hơn nữa bị hại cũng có một phần lỗi. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm e, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo ra đầu thú, có ông ngoại là người có công với cách mạng, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có 02 con còn nhỏ, bị cáo đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại. Theo Luật sư mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là nghiêm khắc đối với bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xử cho bị cáo mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo, bị cáo đã được nhận đầy đủ Kết luận điều tra, Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đảm bảo quyền được Luật sư bào chữa, tại phiên tòa, bị cáo cũng không khiếu nại thắc mắc gì.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào ngày 13/9/2020, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, bị cáo Nguyễn Duy P đã có hành vi dùng dao bấm đâm 01 nhát vào vùng ngực trái, xuyên vào khoang lồng ngực của anh Huỳnh Thanh T2 gây rách động mạch vai dưới, rách thùy phổi dẫn tới sốc mất máu do mất khối lượng tuần hoàn lớn dẫn đến tử vong.

Xét hành vi của bị cáo: Mặc dù giữa bị cáo và bị hại đã có mâu thuẫn trước đó khi bị hại dùng cây tuýp sắt đánh trúng bị cáo nhưng xô xát này đã chấm dứt. Bị hại có đến nhà của bị cáo nhưng chính bị cáo là người đã chủ động cầm dao chạy ra tấn công trước, bị cáo đã được mọi người can ngăn, đã tước dao rựa của bị cáo nhưng bị cáo vẫn vùng thoát ra xông đến chỗ bị hại đang đứng cách nhà bị cáo 20m để đánh nhau nên hành vi đó được đánh giá là hành vi thể hiện tính côn đồ. Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội "Giết người" theo quy định tại điểm n, khoản 1, Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy P là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng công dân trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, cần có mức án nghiêm nhằm răn đe, cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét tổng thể diễn biến vụ án như: Trước đó, do can ngăn bị hại khi bị hại có ý định đánh vợ của bị cáo là chị Lê Thị N1 thì bị cáo đã bị bị hại dùng gây tuýp sắt đánh trúng nhưng không gây thương tích. Khi bị hại hỏi anh Lê Minh S (em vợ của bị cáo) là “Anh rể mày đâu rồi” và anh S đã thông báo cho bị cáo biết việc bị hại (T2) đang tìm đánh bị cáo. Sợ bị hại (T2) đến nhà mình đánh, gây nguy hiểm cho gia đình nên bị cáo đã chủ động tấn công bị hại (T2) trước. Khi thấy bị cáo thì bị hại (T2) đã dùng tuýp sắt đánh bị cáo nhưng không trúng và bị cáo đã dùng dao đâm trúng bị hại dẫn đến tử vong. Tổng hợp diễn biến vụ án cho thấy bị hại (T2) đi uống cà phê nhưng cũng đi tìm bị cáo nên mới hỏi anh S là “Anh rể mày đâu rồi” và mang theo hung khí. Do lo sợ cho sự an toàn của vợ con, đồng thời bị cáo nghĩ nhóm bị hại đến truy sát mình vì trước đó bị cáo biết nhóm của bị hại sẽ đến tìm đánh nên bị cáo tìm hung khí “đánh phủ đầu”. Từ những phân tích ở trên nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì trước đó bị hại cũng có phần lỗi.

- Tình tiết giảm nhẹ khác: Bị cáo có nhân thân tốt, ra đầu thú, có ông ngoại là người có công với cách mạng, thành khẩn khai báo, đã bồi thường một phần cho gia đình bị hại, các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình bị hại yêu cầu bồi thường 97.755.000 đồng tiền mai táng phí, tổn thất tinh thần và cấp dưỡng nuôi con bị hại. Tại phiên tòa hôm nay, gia đình bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại xác định cụ thể đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận được 50.000.000 (năm mươi triệu đồng) tiền mai táng phí và 5.000.000 (năm triệu) đồng chi phí chăm sóc cho con của bị hại. Tổng cộng là 55.000.000 (năm mươi lăm triệu) đồng. Cụ thể:

Số tiền gia đình bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại gồm:

- Viện phí: 2.689.200 đồng;

- Khám nghiệm tử thi: 5.000.000 đồng;

- Đồ tang: 300.000 đồng;

- Chi phí chở tử thi về nhà: 2.500.000 đồng;

- Tiền hòm và rạp: 29.000.000 đồng;

- Chi phí làm đám: 25.766.000 đồng;

- Tiền nhạc: 5.000.000 đồng;

- Tiền mua huyệt và công lấp: 10.500.000 đồng;

- Tiền xây mộ: 21.500.000 đồng; Tổng cộng là: 102.255.200 đồng.

Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản sau:

- Viện phí: 2.689.200 đồng;

- Khám nghiệm tử thi: 5.000.000 đồng;

- Đồ tang: 300.000 đồng;

- Chi phí chở tử thi về nhà: 2.500.000 đồng;

- Tiền hòm và rạp: 29.000.000 đồng;

- Chi phí làm đám tang: 11.000.000 đồng;

- Chi phí mua huyệt mộ: 10.500.000 đồng;

- Xây kim tĩnh: 10.000.000 đồng;

- Chi phí tổn thất tinh thần: 149.000.000 đồng;

Tổng cộng là: 219.989.000 đồng. Được khấu trừ số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường cho đại diện bị hại là 55.000.000 đồng. Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là: 164.989.000 đồng.

Buộc bị cáo phải có trách nhiệm trợ cấp hàng tháng cho 02 con của bị hại là cháu Huỳnh Đăng Khoa sinh ngày 29/11/2017 và cháu Huỳnh Trâm Anh sinh ngày 10/12/2019 đến tuổi trưởng thành theo quy định của pháp luật.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Ý kiến của Luật sư bào chữa theo luật định cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có cơ sở nên được chấp nhận. Riêng đề nghị của luật sư đề nghị hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[6] Riêng các đối tượng đánh bài, xô xát tại nhà của bị hại và tại địa điểm gây án chưa đủ cơ sở để xử lý về tội gây rối trật tự công cộng, cơ quan công an đã xử phạt vi phạm hành chính là có cơ sở.

[7] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ vật chứng tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy P phạm tội “Giết người”.

2. Áp dụng điểm n, khoản 1, Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46; Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 468; Khoản 1, Điều 584; Khoản 1,Điều 585; Khoản 1, Điều 585; Điều 590; Điều 591 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Duy P phải tiếp tục bồi thường số tiền 164.989.000đ (một trăm sáu mươi bốn triệu, chín trăm tám mươi chín nghìn) đồng cho gia đình bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại là chị Ka Phu được nhận số tiền trên.

Bị cáo Nguyễn Duy P phải cấp dưỡng nuôi con của bị hại là cháu Huỳnh Đăng Khoa, sinh ngày 29/11/2017 và cháu Huỳnh Trâm Anh, sinh ngày 10/12/2019 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) và có khả năng lao động, mức cấp dưỡng nuôi mỗi cháu bằng ½ mức lương cơ sở tương ứng với thời điểm thi hành án. Thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 10/2020, chị Ka P được nhận số tiền trên.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao (loại dao bấm) dài khoảng 20cm, cán dao ốp nhựa màu vàng đen, đầu dao nhọn dài khoảng 09cm, một bên hông dao sắc bén; 01 dao rựa dài khoảng 01 mét (cán dao bằng gỗ màu đen, dài 60cm; bản dao bằng kim loại màu đen dài 40cm, bản rộng 10cm; 02 chiếc dép xỏ ngón chân phải, trái màu đen kích thước 26cm x 11cm; 01 chiếc dép màu đen hiệu Asia kích thước 29cm x 11,5cm; 01 tuýp sắt dài 78,5cm, đường kính 2,5cm là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng.

(Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số NK21/093 ngày 15/6/2021 giữa Cơ quan điều tra PC 02 – Công an Đồng Nai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai).

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Bị cáo Nguyễn Duy P phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 8.249.450 (tám triệu, hai trăm bốn mươi chín nghìn, bốn trăm năm mươi) đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện theo pháp luật của bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 98/2021/HS-ST

Số hiệu:98/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về