Bản án về tội giết người số 975/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 975/2023/HS-PT NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 14/2023/TLPT-HS ngày 29 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo Bùi Đức Đ phạm tội “Giết người”.

Do có kháng cáo của bị cáo Bùi Đức Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1553/2023/QĐPT-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo: Bùi Đức Đ, sinh ngày 10/12/1982, tại N.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn P, xã L, huyện L, tỉnh L; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Đức N (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; Có vợ là Nguyễn Thị T (là bị hại trong vụ án, đã chết) và 02 con chung đã chết do đuối nước; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ ngày 16/01/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh N xử phạt 18 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản”, tại Bản án số 02/2007/HSST ngày 24/01/2007; Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/02/2008. Bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh L xử phạt 05 năm tù về tội: “Chiếm đoạt vật liệu nổ”, tại Bản án số 01/2013/HSST ngày 22/01/2013; Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2015.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Tuấn H1, Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Bị hại: Bà Nguyễn Thị T (đã chết).

Đại diện hợp pháp của bị hại:

Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1957 (có mặt).

Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1957 (có mặt).

Anh Phùng Văn G, sinh năm 2002 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn P, xã L, huyện L, tỉnh L.

Bà V, anh G ủy quyền cho ông Nguyễn Văn S, theo Văn bản ủy quyền ngày 09/3/2023).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 15/01/2023, Bùi Đức Đ ngồi ăn và uống rượu cùng với Lê Văn C (H2), Trần Văn P (Cuội) tại thôn P, xã L, huyện L, tỉnh L. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì C và P ra về. Đông ngồi uống hết số rượu còn lại, sau đó dọn dẹp mang chén bát vào nhà bếp, thì thấy vợ là Nguyễn Thị T (mang thai từ khoảng tháng thứ 6-7), đang ngồi trên ghế. Đ nói với bà T về việc nhà bị mất 02 con gà và trách móc bà T việc đang mang thai mà còn chở su su đi bán rồi nói bị đau bụng.

Nghe Đ nói vậy, bà T nói: “Chuyện 02 con gà thì tôi không biết, ông mang cho con nào rồi”. Bực tức câu nói của bà T, Đ cầm điện thoại di động của bà T để trên tủ kính ném mạnh xuống nền nhà làm điện thoại bị vỡ. Thấy vậy, bà T đứng dậy và chửi: “Đồ phá hoại”. Đông tức giận, đến đối diện bà T dùng tay trái cầm áo phần trước ngực phải của bà T, tay phải đấm, tát liên tục vào vùng mặt, đầu bà T. Bà T ngồi xổm xuống dùng tay phải che phía trước mặt nhưng Đ vẫn dùng tay phải đấm liên tục vào vùng đầu bên trái của bà T. Lúc này, bà T xin Đ đừng đánh nữa, thì Đ nói: “Mày hiểu chưa, tao bắt gà cho ai đâu?” rồi đứng lên nói bà T đi ngủ còn Đ ra ngoài thềm nói chuyện điện thoại.

Khoảng 5 đến 10 phút sau, bà T đi ra từ cửa bếp đến chỗ Đ đứng và nói: “Tôi đi xuống nhà bố mẹ ruột tôi”. Nghe vậy, Đ nói: “Không được xuống dưới đó”. T nói tiếp: “Không, tao đi xuống dưới đó”, thì Đ dùng tay trái nắm cổ áo và tóc của bà T kéo vào trong nhà bếp. Bà T giằng co lại thì Đ dùng cả 2 tay kéo bà T vào. Đến gần cửa bếp thì Đ xô bà T vào trong, bà T xoay người lại, thì Đ dùng tay phải đẩy mạnh vào ngực của bà T, làm bà T ngã ngửa xuống nền xi măng, sau đó Đ đến nắm tay kéo bà T ngồi dậy rồi nói: “Giờ mày có nghe tao không?” thì bà T đẩy Đ ra. Lúc này, Đ dùng tay trái cầm cổ tay phải của bà T còn tay phải đấm liên tục vào mặt của bà T làm chảy máu mũi. Sau đó, Đ lau máu mũi cho bà T, rồi dìu bà T đặt lên giường ngủ của hai vợ chồng, đắp chăn lại cho bà T rồi đi ra ngoài hiên nhà hút thuốc và gọi điện thoại nói chuyện với người quen.

Lúc này, Phùng Văn G là con riêng của bà T đi làm về và đi thẳng vào phòng của mình ngủ. Đ đi ra sau nhà cho heo ăn, sau đó vào buồng ngủ, thì phát hiện nửa người phần trên của bà T úp mặt xuống sàn nhà có chảy nhiều máu, nửa người phần dưới vẫn ở trên giường. Đông đến đỡ bà T lên giường sơ cứu, đồng thời nói anh G gọi điện cho em bà T đến đưa bà T đi cấp cứu, rồi lấy khăn lau mặt cho bà T. Khi chị T1 (em bà T) chạy xe máy đến thì cùng nhau chở bà T lên Trạm Y tế xã Lát để cấp cứu nhưng bà T đã chết.

Tại Kết luận giám định Pháp y tử thi số: 26-23/GĐPYTT-PYLĐ ngày 28/3/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh L, kết luận nguyên nhân tử vong của bà Nguyễn Thị T: Chấn thương sọ não kín; dập phổi.

Tại Kết luận giám định Pháp y tử thi số: 31/KLPY-PC09 ngày 23/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L, kết luận: Cơ chế hình thành các dấu vết thương tích trên cơ thể của bà T là do tác động tương hỗ với vật tày, bề mặt tày gây ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L, quyết định:

Căn cứ điểm c, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Đức Đ phạm tội “Giết người”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Đức Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2023.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 14/7/2023, bị cáo Bùi Đức Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo Đ giữ nguyên kháng cáo và trình bày:

Bị cáo không nhờ người bào chữa. Đồng thời cũng từ chối người bào chữa chỉ định là Luật sư Nguyễn Tuấn H1, Đoàn Luật sư tỉnh L.

Bị cáo xác nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu nên bị xét xử về tội “Giết người” là đúng. Tuy nhiên, hình phạt 20 năm tù là quá nghiêm khắc nên chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Bị cáo không có ý định giết bà T.

Đại diện Viện Kiêm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H có ý kiến:

Tại phiên tòa, bị cáo Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, các tình tiết giảm nhẹ do bị cáo trình bày tại phiên tòa đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bị cáo Bùi Đức Đ kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Bị cáo Bùi Đức Đ bị xét xử về tội danh có khung hình phạt đến tử hình nên thuộc trường hợp phải có người bào chữa. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo trình bày không nhờ người bào chữa, đồng thời cũng từ chối người bào chữa do Tòa án chỉ định. Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc từ chối người bào chữa là quyền của bị cáo, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đ xác định đã thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” là đúng. Tuy nhiên hình phạt 20 năm tù giam là quá nghiêm khắc nên bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Căn cứ các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: Vào khoảng 18 giờ 30 ngày 15/01/2023, sau khi cùng với một số người quen uống rượu tại nhà của mình tại thôn P, xã L, huyện L, tỉnh L, do mâu thuẫn với vợ là bà Nguyễn Thị T trong việc bị mất gà, Bùi Đức Đ đã dùng tay đấm, tát liên tục vào đầu, mặt bà T. Sau khi xô bà T ngã ngửa xuống nền xi măng thì Đ kéo bà T dậy rồi tiếp tục đấm vào mặt bà T nhiều lần. Hậu quả làm cho bà T tử vong do bị chấn thương sọ não kín và dập phổi.

[4] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Đ đã phạm tội “Giết người” quy định tại điểm c, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo của bị cáo Đ, thấy rằng: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên không có căn cứ chấp nhận.

[6] Trong vụ án này, hành vi của bị cáo Đ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo biết bà T đang mang thai khoảng từ 6 đến 7 tháng nhưng vẫn cố ý dùng tay đấm, tát liên tục vào đầu, mặt và xô bà T ngã xuống nền xi măng trong tình trạng bà T không thể chống đỡ dẫn đến hậu quả bà T tử vong. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo 20 năm tù là chưa nghiêm, chưa tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát không kháng nghị tăng hình phạt; Đại diện hợp pháp của bị hại tuy có kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo Đ nhưng thuộc trường hợp kháng cáo quá hạn. Vì vậy, Hội đồng xét xử kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thẩm quyền để tăng hình phạt đối với bị cáo Đ.

[7] Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[8] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Đức Đ.

2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 29/2023/HS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

3. Căn cứ điểm c, n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, 3.1. Tuyên bố bị cáo Bùi Đức Đ phạm tội “Giết người”.

3.2. Xử phạt bị cáo Bùi Đức Đ 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2023.

3.3. Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tiếp tục giam bị cáo Bùi Đức Đ để bảo đảm thi hành án.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Đức Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 975/2023/HS-PT

Số hiệu:975/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về