Bản án về tội giết người số 95/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 95/2020/HS-PT NGÀY 27/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn A1 phạm tội “Giết người”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.

* Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn A1, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Thôn 1 LN, xã ĐH, huyện KB, tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 3/10; Con ông: Trần Văn A1 và bà Nguyễn Thị A2 (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị A3, sinh năm 1964; Con: Có 3 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1993. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/7/2019; (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn A4; Luật sư của Công ty Luật TNHH HT thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

* Người bị hại: Ông Nguyễn Văn A5, sinh năm 1968 (vắng mặt); đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị A7, sinh năm 1968 cùng nơi cư trú: Thôn 1 LN, xã ĐH, huyện KB, tỉnh Hà Nam (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Nguyễn Thị A3, sinh năm 1967; người đại diện theo ủy quyền là anh Trần Văn A6, sinh năm 1989 (vắng mặt).

+ Bà Trần Thị A7, sinh năm 1968 (có mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn 1 LN, xã ĐH, huyện KB, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 5 năm 2019, Trần Văn A1 chôn một số cọc bê tông ở phần đất gần mép bờ mương nhà A1 với ý định sẽ mua dây thép gai về rào lại, tránh trâu bò vào phá hoại. Đến khoảng 16h ngày 08/5/2019, Trần Văn A1 đi bừa ruộng về thì thấy vợ là bà Nguyễn Thị A3 nói “Mới hôm trước tôi thấy ông trồng cọc bê tông ở ruộng sao hôm nay lại phá đi”; A1 nói “Chỉ có thằng A5 phá thôi”. Ngay sau đó, A1 lấy chiếc cuốc phần cán tre dài 1,22m, phần lưỡi bằng kim loại hình chữ nhật kích thước (0,2x0,14)m, cạnh sắc mỏng, có phần tròng sắt bọc đầu cán cuốc rồi đi ra vị trí chôn cọc bê tông thì thấy 01 chiếc cọc bê tông bị gãy, vỡ phần chân cọc. Nghi ngờ ông Nguyễn Văn A5 là người phá cọc nhà mình nên A1 sang nhà ông A5. Khi đến bờ ao tiếp giáp với ruộng nhà ông A5, A1 thấy bà Trần Thị A7 (vợ ông A5) đang ở trên cây vải hái quả, A1 nói “Bờ nhà cô thì trồng kín cây, bờ nhà tôi thì tôi rào lại, sao lại phá đi”. Lúc này ông A5 ở trong nhà đi ra, đứng đối diện và cách A1 khoảng 1m và nói “Đây là bờ tập thể, ông không có quyền trồng cọc bê tông ở đây”, A1 nói “Tôi biết đây là bờ tập thể nhưng hôm trước tôi trồng cọc bê tông ông cũng có mặt sao không nói, hôm nay lại phá của tôi”, ông A5 nói “Đây là của tập thể, tao thích thì tao phá, không phải nói với ai”. Thấy ông A5 nói vậy, A1 rất tức giận liền bước lùi về phía sau hai bước, dùng hai tay cầm cán cuốc giơ lên qua đầu rồi bổ một nhát, hướng từ trên xuống dưới làm phần tròng kim loại nối giữa cán cuốc và lưỡi cuốc trúng vào chiếc mũ cối ông A5 đang đội trên đầu, đồng thời vào trán ông A5 làm ông bị ngã úp mặt xuống nền đất, đầu hướng về phía A1, cách vị trí A1 đứng 1m. A1 tiếp tục bước lùi về phía sau thêm một bước nữa, hai tay cầm cán cuốc giơ lên bổ một nhát theo hướng từ trên xuống dưới làm phần tròng cuốc trúng vào đỉnh đầu ông A5. Sau đó A1 cầm cuốc chạy về nhà, còn ông A5 được đưa đến Bệnh viện Việt Đức cấp cứu và điều trị từ ngày 08/5/2019 đến ngày 17/5/2019 trong tình trạng có vết thương vùng đỉnh 5,5cm; vết thương trán 3cm.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ án xảy ra tại cánh đồng Đ thuộc thôn 1 LN, xã ĐH, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Lối đi ra cánh đồng Đ rộng 1,2m, hai bên mọc nhiều cây cỏ. Ở vệ đường phía Đông cách ngã tư giao nhau 0,8m về phía bắc, cách mép lối phía Đông 0,7m về phía tây là khu vực nhiều vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt nghi máu người rải rác trên diện tích 1,4m dọc theo lối đi bám trên cây cỏ.

Quá trình điều tra thu giữ: 01 mũ cối màu xanh KT (30x24)cm, cũ đã qua sử dụng do bà Trần Thị A7 giao nộp; 01 chiếc cuốc gồm hai phần, phần cán gỗ tre hình trụ dài 1,22m, đường kính 04cm; phần lưỡi kim loại hình chữ nhật KT (20x14)cm, cạnh sắc mỏng, cũ đã qua sử dụng do Trần Văn A1 giao nộp.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện KB, tỉnh Hà Nam đã ra quyết định trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với thương tích của ông Nguyễn Văn A5.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 63/19/TgT ngày 28/6/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo kích thước lớn vùng đỉnh trái; sẹo kích thước nhỏ vùng trán phải; khuyết sọ đỉnh trái đã vá; vỡ xương trán phải, máu tụ ngoài màng cứng, không để lại di chứng.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định 49%.

- Cơ chế hình thành vết thương và vật gây thương tích: Qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và khám giám định cho phép nhận định: Thương tích do vật tày tác động trực tiếp gây nên”.

Ngày 06/9/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam có Công văn đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam xác định với thương tích của ông Nguyễn Văn A5 tại thời điểm xảy ra vụ án nếu không được cấp cứu kịp thời thì có thể dẫn đến tử vong không? Ngày 13/9/2019, Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam có Công văn với nội dung: Với các thương tích của ông Nguyễn Văn A5 tại thời điểm xảy ra vụ án nếu không được cấp cứu kịp thời thì có thể dẫn đến tử vong.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án hai bên đã thống nhất thỏa thuận xong về phần bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 275.000.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã quyết định: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 47; Điều 38; Điều 50; Điều 57;điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 106; Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Trần Văn A1 13 (mười ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2019.

Ngoài ra bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo Ngày 26 tháng 11 năm 2019 bị cáo Trần Văn A1 kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn A1 giữ nguyên kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Bị cáo tự nguyện hỗ trợ thêm cho gia đình người bị hại số tiền 30.000.000 đồng Đại diện theo ủy quyền của người bị hại không nhận tiền bị cáo hỗ trợ thêm, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với bị cáo theo quy định của pháp luật; không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có ý kiến thể hiện: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, do đó có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội do bột phát, không có chủ mưu từ trước, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người đại diện theo ủy quyền của người bị hại, người bào chữa và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Văn A1 gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Văn A1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16h ngày 08/5/2019, Trần Văn A1 nghi ngờ ông Nguyễn Văn A5 phá cọc rào bê tông nhà mình nên A1 cầm 01 chiếc cuốc có phần cán tre, lưỡi bằng kim loại đi ra vị trí chôn cọc bê tông. Khi đến bờ ao tiếp giáp với ruộng nhà ông A5, thì A1 và ông A5 đôi co với nhau. Trong lúc bực tức A1 dùng hai tay cầm cán cuốc bổ một nhát, trúng vào chiếc mũ cối ông A5 đang đội trên đầu đồng thời vào trán ông A5 làm ông bị ngã úp mặt xuống nền đất. A1 tiếp tục bổ thêm một nhát, hướng từ trên xuống dưới làm phần tròng cuốc trúng vào đầu ông A5. Hậu quả, ông A5 bị thương tích vết thương vùng đỉnh 5,5cm, vết thương trán 3cm phải Bệnh viện Việt Đức cấp cứu và điều trị với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định 49%. Hành vi nêu trên của Trần Văn A1 đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người” với tình tiết tăng nặng định khung có tính chất côn đồ, theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, hội đồng xét xử thấy:Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 13 năm 06 tháng tù là có căn cứ.

Tại cấp phúc thẩm gia đình bị cáo xuất trình: Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Trần Văn A1 là bố đẻ bị cáo; quyết định thực hiện trợ cấp một lần đối với người tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế của Bộ tư lệnh quân khu 3 cho bị cáo Trần Văn A1.

Xét bị cáo Trần Văn A1 trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã gây ra; bị cáo đã tích cực tác động gia đình tự nguyện bồi thường số tiền 275.000.000đồng cho người bị hại được gia đình người bị hại trong quá trình xét xử sơ thẩm có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tiếp tục tự nguyện hỗ trợ cho gia đình người bị hạithêm số tiền 30.000.000 đồng, mặc dù gia đình bị hại không nhận nhưng cũng thể hiện thái độ ăn năn hối cải và ý thức khắc phục hậu quả được hội đồng xét xử ghi nhận. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; bị cáo có thời gian tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế;bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Mặt khác, hành vi phạm tội của bị cáo mang tính bột phát, bị cáo không có chủ ý tước đoạt tính mạng của người bị hại; ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tộingười bị hại được đưa đi cứu chữa kịp thời nên bị giảm 49% sức khỏe, do vậy bị cáo phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại điểm x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo Trần Văn A1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt vẫn đảm bảo tính nghiêm minh, cũng như giảm đi sự căng thẳng, mâu thuẫn trong mối quan hệ tình làng nghĩa xóm tại địa phương; tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên.

Căn cứ Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn A1. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.

1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 38; Điều 50; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn A1 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạttù tính từ ngày 09/7/2019.

2. Về án phí: bị cáo Trần Văn A1 không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật ngay sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 95/2020/HS-PT

Số hiệu:95/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về