Bản án về tội giết người số 930/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 930/2023/HS-PT NGÀY 13/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh X, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 836/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo A phạm tội “Giết người”, do có kháng cáo của bị cáo và đại diện gia đình người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2023/HS-ST ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh X.

* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Tần A (tên gọi khác: Không), sinh ngày 03 tháng 4 năm 1987 tại xã M, huyện B, tỉnh X; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn C, xã M, huyện B, tỉnh X; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tần D và bà Chảo E; có vợ là Tẩn F và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh X; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê L - Luật sư Công ty Luật hợp danh V, Đoàn Luật sư tỉnh X; có mặt.

- Bị hại: Anh H (đã chết).

- Những người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo: Ông Hồ P; bà Mùng T; chị Bùi N; các cháu Hồ Q (sinh ngày 27/8/2010), cháu Hồ J (sinh ngày 10/6/2014), cháu Hồ O (sinh 27/01/2020) đều do chị N là người đại diện theo pháp luật. Cùng địa chỉ: Thôn S, xã Y, huyện B, tỉnh X.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Hồ P, bà Mùng T: Chị Bùi N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/01/2023, A đi ăn cưới tại nhà ông P1 (sinh năm 1977) thôn L1, xã Y, huyện B, tỉnh X. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn cơm uống rượu xong, A cùng với H1 (sinh năm 1985, trú tại thôn B1, xã B2, huyện B) đến khu vực sân khấu của rạp cưới để hát karaoke thì có H (sinh năm 1990, trú tại thôn S, xã Y, huyện B) đang ngồi trước màn hình sử dụng chọn bài hát, A và H1 bảo N1 mở bài hát nhưng N1 bảo máy bị lỗi không mở được, lúc này H1 nhìn thấy N1 mặc chiếc quần bò có hở ở phần đầu gối, H1 đã dùng tay xé làm rách phần vải chiếc quần khiến hai bên xảy ra mâu thuẫn. Thấy vậy, A nói với N1 là do H1 say rượu mong N1 bỏ qua nhưng N1 không đồng ý và yêu cầu A, H1 đi ra ngoài để giải quyết. Tuy nhiên H1 không đi mà chỉ có A đi cùng N1 ra khu vực đường bê tông trước cổng rạp cưới. Tại đây A tiếp tục xin lỗi, mong N1 bỏ qua nhưng N1 không đồng ý và bảo A phải gọi được H1 cùng ra xin lỗi N1 nếu không thì A phải bị đánh thay H1. A đồng ý bị đánh thay cho H1. N1 dùng tay phải tát một phát vào má bên trái của A. Bị tát xong, A hỏi N1 “Như vậy đã bỏ qua chưa”, N1 vẫn không đồng ý mà tiếp tục yêu cầu A gọi H1 ra để xin lỗi mình. A đi vào trong rạp đám cưới để gọi H1 nhưng H1 không ra, A quay lại bảo với N1 không gọi được H1, N1 tiếp tục yêu cầu A phải gọi được H1 ra để xin lỗi mình nếu không A sẽ bị đánh tiếp. Do bực tức, A đã quay vào trong rạp đám cưới, đi đến khu vực nhà bếp của gia đình ông P lấy 01 con dao dài khoảng 25cm có mũi nhọn, một lưỡi sắc, lưỡi dao bằng kim loại, phần rộng nhất của lưỡi khoảng 05 đến 06cm, cán dao bằng gỗ, dài khoảng 10cm để trên mặt bàn. A cầm dao đi ra thì gặp H1 ở cổng rạp đám cưới, cả hai đi ra chỗ N1 đang đứng. H1 nói với N1 người xé quần là H1 và bảo còn chỗ nào không để xé nốt nên giữa N1 và H1 đã xảy ra cãi nhau; lúc này A tiến đến cách N1 khoảng 01m, tay phải cầm con dao vung dao lên đâm một nhát theo hướng từ phải sang trái, từ trên xuống dưới trúng vào ngực phải của N1 rồi rút dao ra và bỏ chạy. Sau khi bị đâm, N1 được mọi người đưa đi cấp cứu thì đã bị tử vong.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 06/GĐPY ngày 15/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh X đối với H, kết luận: Nguyên nhân tử vong do mất máu cấp bởi vết thương thấu ngực thủng phổi phải.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2023/HS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh X quyết định:

Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo A 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2023.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/7/2023, bị cáo A có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Ngày 04/7/2023, người đại diện hợp pháp của bị hại là chị N có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt cho bị cáo A.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện hợp pháp của bị hại là chị N có kháng cáo vắng mặt. Chủ tọa phiên tòa công bố nội dung đơn kháng cáo của chị N.

Bị cáo A giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án 20 (hai mươi) năm tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Bị cáo A là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở địa bàn khó khăn, lạc hậu. Bị cáo bức xức vì bị bị hại nhiều lần tát vào mặt và chửi bới trong khi bị cáo không có lỗi và đã nhẫn nhịn xin lỗi bị hại thay cho bạn. Sự việc xảy ra có một phần lỗi của bị hại; đại diện hợp pháp của bị hại cũng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã bồi thường đầy đủ cho gia đình bị hại (Nhưng không cung cấp được giấy xác nhận của chị N vì đã giặt nát).

Bị cáo A có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Người đại diện hợp pháp của bị hại là chị N có kháng cáo vắng mặt nhưng tại phiên tòa mở lần thứ nhất ngày 26/9/2023 chị N có mặt, giữ nguyên nội dung kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt cho bị cáo A và xin vắng mặt tại phiên tòa tiếp theo do việc di chuyển đường xa và khó khăn nên đề nghị hội đồng xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo là chị N.

Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo A về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, không oan. Tuy nhiên, sự việc xảy ra có một phần lỗi của người bị hại. Đại diện hợp pháp của bị hại cũng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như luật sư trình bày. Tòa án sơ thẩm tuyên phạt 20 năm tù đối với bị cáo là tương đối nghiêm khắc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa hình phạt của bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo A xuống từ 17 đến 18 năm tù.

Bị cáo nói lời cuối cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên toà và lời trình bày của người bào chữa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên toà;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi xét xử phúc thẩm, bị cáo A và đại diện theo pháp luật của người bị hại là chị N kháng cáo trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Người đại diện hợp pháp của bị hại là chị N có kháng cáo vắng mặt nhưng tại phiên tòa mở lần thứ nhất ngày 26/9/2023 chị N có mặt, giữ nguyên nội dung kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt cho bị cáo A và xin vắng mặt tại phiên tòa tiếp theo do việc di chuyển đường xa và khó khăn nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10/01/2023, A, H1, H xảy ra mâu thuẫn trong đám cưới tại nhà ông P1 (thôn L1, xã Y, huyện B), sau đó A và N1 đã đi ra khu vực đường bê tông trước cổng rạp cưới để giải quyết mâu thuẫn. Tại đây N1 và A tiếp tục cãi nhau về việc H1 xé quần của N1, A xin lỗi N1 thay H1 nhưng N1 không đồng ý rồi dùng tay phải tát vào má bên trái của A và yêu cầu A gọi H1 ra xin lỗi N1, nếu không A sẽ bị đánh tiếp. Do bực tức, A đã dùng con dao dài khoảng 25cm có mũi nhọn, một lưỡi sắc, lưỡi dao bằng kim loại đâm một nhát theo hướng từ phải sang trái, từ trên xuống dưới trúng vào ngực phải của H. Hậu quả H tử vong.

Hành vi dùng dao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đâm vào ngực phải bị hại H (là vùng trọng yếu của con người) của bị cáo A là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội; đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” quy định tại Bộ luật Hình sự. Hậu quả là anh H tử vong, đã thể hiện tính côn đồ, coi thường phát luật và đã tước đoạt mạng sống của bị hại. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A và đại diện theo pháp luật của người bị hại là chị N:

[4.1] Xét thấy, Sự việc xảy ra một phần do lỗi của bị hại H. Mặc dù nguyên nhân mâu thuẫn do H1 dùng tay xé làm rách phần vải chiếc quần của H nhưng A đã xin lỗi và chịu bị đánh thay cho H1, tuy nhiên N1 vẫn hết lần này đến lần khác bắt A gọi H1 ra để xin lỗi. Việc đó gây bức xúc cho bị cáo khiến A thiếu kiềm chế mà nhất thời phạm tội. Mức hình phạt 20 năm tù đối với bị cáo là tương đối nghiêm khắc.

[4.2] Hơn nữa, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động đến gia đình, dùng tài sản của gia đình và của bị cáo bồi thường số tiền 20.000.000 đồng cho gia đình bị hại và nộp tại cơ quan cảnh sát điều tra số tiền 45.500.000 đồng để bồi thường cho gia đình bị hại. Tòa án sơ thẩm vận dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là đúng quy định.

[4.3] Xét bị cáo A không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, đại diện gia đình bị hại là chị N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xác nhận việc bị cáo đã bồi thường đầy đủ vào ngày 03/7/2023. Như đã phân tích, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A có cơ sở chấp nhận, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Luật sư về việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm; giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo A và đại diện theo pháp luật của người bị hại là chị N đều không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A của đại diện theo pháp luật của người bị hại là chị N; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2023/HS-ST ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh X như sau:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo A 18 (Mười tám) năm tù về tội“Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 12/01/2023.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo A và và đại diện theo pháp luật của người bị hại đều không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 930/2023/HS-PT

Số hiệu:930/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về