Bản án về tội giết người số 92/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 92/2024/HS-PT NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 907/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B và Rmah K. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2023/HS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

- Bị cáo kháng cáo:

1. Họ và tên: Rah Lan S, sinh ngày 28 tháng 11 năm 2000, tại Gia Lai. Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ja Rai; Tôn giáo: Tin Lành;

Trình độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 01/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”.

Con ông: Rmah H1, sinh năm 1979 và bà: Rah Lan H2, sinh năm 1981.

Bị cáo chưa có vợ, con (Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai có vợ là Kpă H3 và có 01 con) Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 12/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 147/LTG-CSHS-Đ4 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).

2. Họ và tên: Kpă H, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1995, tại Gia Lai. Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ja Rai; Tôn giáo: Thiên Chúa; Trình độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2015 có hành vi “Chống người thi hành công vụ” bị Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xử phạt 19 tháng tù.

Con ông: Rỏ Châm P, (đã chết) và bà: KPĂ H, sinh năm 1971.

Bị cáo có vợ tên S1, sinh năm 1995; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2022.

Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 13/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 153/LTG-CSHS-Đ4 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).

3. Họ và tên: Siu B, sinh ngày 14 tháng 12 năm 2002, tại Gia Lai. Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ja Rai; Tôn giáo: Thiên Chúa;

Trình độ học vấn: Không biết chữ; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: công nhân.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 26/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai xử phạt 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Con ông: Rmah K, (đã chết) và bà: Siu H, không rõ năm sinh. Bị cáo chưa có vợ, con.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 12/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 142/LTG-CSHS-Đ4 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).

4. Họ và tên: Siu B, sinh ngày 14 tháng 12 năm 2002, tại Gia Lai. Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ja Rai; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Tiền án, tiền sự: Không;

Con ông: Kpă L, sinh năm 1967 và bà: Siu H, sinh năm 1956.

Bị cáo chưa có vợ, con (Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai bị cáo có vợ là Kpă P và có 01 con).

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 13/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 150/LTG-CSHS-Đ4 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt)..

5. Họ và tên: Rmah K, sinh ngày 28 tháng 3 năm 2003, tại Gia Lai. Tên gọi khác: Không.

Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ja Rai; Tôn giáo: Tin lành;

Trình độ học vấn: 02/12; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân.

Tiền án, tiền sự: Không.

Con ông: Siu B, (đã chết) và bà: Rmah H, sinh năm 1963. Bị cáo chưa có vợ, con.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 13/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 152/LTG-CSHS-Đ4 ngày 19/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho các bị cáo Rah Lan S và Kpă H: Luật sư Dương Phước H4 – Văn phòng Luật sư Dương Phúc H5 - thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Siu B: Luật sư Huỳnh Túy G – Công ty L4 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho các bị cáo Siu B và R: Luật sư Trần Thị Ngọc D – Công ty L4 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

* Bị hại: Rmah P (đã chết);

Đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Rmah L1; sinh năm: 1999 (vắng mặt); Địa chỉ: làng T, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Siu A và anh Rlan T, sinh năm 2003, hộ khẩu thường trú: xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai (tạm trú: ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai) cùng có tình cảm nam nữ với chị Ksor H6’ Ú, sinh năm 2005, hộ khẩu thường trú: thị trấn N, huyện C, tỉnh Gia Lai; nên giữa Siu A và Rlan T xảy ra mâu thuẫn. Rlan Thát nhờ anh Nguyễn Hà D1, sinh năm 1984, hộ khẩu thường trú: tổ dân phố I, đường C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai đi giảng hòa với Siu A. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10 tháng 4 năm 2022, anh Rlan T đi cùng anh Nguyễn Hà D1 và một số người bạn của anh D1 (chưa rõ họ tên, địa chỉ) đến trước phòng trọ của anh Ngô Văn D2, sinh năm 1977, địa chỉ: tổ D, ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì gặp Rah L2 SiÔn là anh bà con với Siu A. Tại đây, hai bên xảy ra mâu thuẫn, do Rah Lan SiÔn có một mình nên bị nhóm của anh Rlan T đánh nhưng gây thương tích nhẹ. Trước khi Rah L2 SiÔn bỏ đi đã chỉ tay vào nhóm của R T nói nhớ mặt từng người và sẽ quay lại đánh trả thù.

Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Rah L2 SiÔn gặp các đối tượng gồm: Siu A, Rah L, Như, Siu P1, Siu L3, Siu B, S, Rmah K, Nguyễn Bá T1, Nguyễn Hoàng Thái H7, Kpă H, Siu B1 và một số đối tượng chưa rõ lai lịch kể lại sự việc bị nhóm của Rlan T đánh và rủ đi đánh trả thù, nghe vậy cả nhóm đồng ý, đồng thời mang theo hung khí gồm: dao tự chế, dao Thái Lan, cây, gạch đến dãy nhà trọ của anh Ngô Văn D2 tìm nhóm của anh Rlan T đánh trả thù. Khi đến nơi, nhóm của Rah L2 SiÔn gặp anh Rlan T, anh Rmah P2 và một người tên X (chưa rõ họ, địa chỉ) đang ở dãy trọ nhà anh D2 nên nhóm của Rah L2 SiÔn sử dụng hung khí xông vào đuổi đánh nhóm của anh Rlan T. Nhóm của anh R Thát bỏ chạy dọc hành lang dãy phòng trọ rồi vào phòng trọ số 9 trốn. Trong lúc đánh nhau, anh Rmah P2 (là bạn của anh Rlan T) dùng dao đâm trúng vào cánh tay của Siu A gây thương tích và anh Rmah P2 bị Siu A dùng dao Thái Lan đâm nhiều nhát vào lưng, vai; Siu P1 dùng dao Thái Lan đâm 01 nhát trúng vào lưng còn Kpă H dùng dao chém 01 nhát vào đầu của anh R1 P khiến anh Rmah P2 nằm gục tại chỗ. Anh Siu T2 sinh năm 1990 là bạn của anh Rlan T đang đứng chơi tại dãy nhà trọ cũng bị một đối tượng chưa rõ lai lịch bên nhóm của Rah L2 SiÔn đánh gây thương tích nhẹ.

Anh Rmah P2 được quần chúng nhân dân đưa đi cấp cứu và đã tử vong cùng ngày 10/4/2022 tại Bệnh viện Đ, tỉnh Đồng Nai.

Sau khi gây án xong các đối tượng đã bỏ trốn. Ngày 11/04/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Siu P1, Rah L, Như, Nguyễn Hoàng Thái H7, Nguyễn Bá T1 về tội giết người.

Ngày 12/04/2022 và 13/04/2022, đối tượng Siu B1 đã ra Công an xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai đầu thú; các đối tượng Rah Lan SiÔn, Siu L3, Siu A, S, S, R, Kpă H đã ra Công an xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai đầu thú.

Vật chứng: 01 mũ bảo hiểm màu đen, bị vỡ lớp nhựa bên ngoài.

+ 01 mũ bảo hiểm màu nâu, bị mất phần lưỡi trai.

+ 01 đôi dép màu đen, hồng.

+ 01 mũ két (mũ lưỡi trai) màu đen.

+ 01 ghế nhựa màu đỏ đã bị gãy phần chân.

+ 01 USB bên trong có chứa dữ liệu camera ghi lại hình ảnh có liên quan đến vụ án tại thời điểm xảy ra vụ án (lưu trong hồ sơ vụ án).

Đối với hung khí gây án là dao tự chế và dao Thái Lan do các bị cáo Kpă H, Sui A1 và Siu P1 sử dụng trong lúc gây án. Sau khi phạm tội các bị can đã vứt (không xác định được địa điểm). Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không có kết quả.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 10/4/2022, xác định nơi xảy ra vụ án là khu nhà trọ cho thuê của ông Ngô Văn D2 địa chỉ: tổ D, ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 758/KL-KTHS ngày 30/06/2022 của Phòng K2 (PC09) Công an tỉnh Đ kết luận tình trạng thương tích và nguyên nhân tử vong của Rmah P như sau:

- Dấu hiệu chính: Bên ngoài thấy rách da 5 cm cách 13 cm đỉnh phải; 9 vết rách da vùng vai lưng hai bên kích thước (2cm; 2,5 cm; 1 cm; 3 cm; 2 cm; 3 cm; 1,5 cm); Rách da 3,5 cm x 1,5 mặt ngoài cánh tay phải. Giải phẫu thấy tụ máu dưới da đầu; Trong khoang lồng ngực trái và ổ bụng có máu; Thủng thùy dưới phổi trái, bên trong thấy đứt rách động - tĩnh mạch phế quản; Đứt nhu mô và động - tĩnh mạch thận.

- Nguyên nhân tử vong: Suy hô hấp tuần hoàn do đa vết thương vùng vai, lưng hai bên gây thủng thùy phổi, đứt nhu mô thận và động tĩnh - mạch thận trái.

- Cơ chế: Nạn nhân bị tác động bởi vật sắc nhọn vào vùng đầu, vai - lưng và mặt ngoài cánh tay gây thủng thùy phổi, đứt rách động - tĩnh mạch phổi; đứt nhu mô thận và động - tĩnh mạch thận gây mất máu dẫn tới tử vong.

- Hung khí: Vật sắc và vật sắc nhọn.

*Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện hợp pháp của bị hại Rmah P là anh Rmah L1, sinh năm: 1999 (anh trai ruột của bị hại Rmah Phăn) yêu cầu các bị cáo trong vụ án phải bồi thường tiền chi phí mai táng là 200.000.000 đồng và bồi thường tiền tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.

Đến nay đại diện của các bị cáo trong vụ án đã bồi thường cho gia đình bị hại Rmah P2 số tiền là 110.000.000 đồng. Cụ thể như sau:

- Gia đình bị cáo Siu A đã bồi thường số tiền 7.630.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Siu L3 bồi thường số tiền 7.630.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Siu P1 bồi thường số tiền 5.100.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Rah Lan X1 bồi thường số tiền 8.610.000 đồng.

- Gia đình bị cáo N bồi thường số tiền 4.435.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Rah L2 SiÔn bồi thường số tiền 13.140.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Siu B1 bồi thường số tiền 5.200.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Siu B bồi thường số tiền 7.500.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Rmah K bồi thường số tiền 9.330.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Kpă H bồi thường số tiền 5.200.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Siu K1 bồi thường số tiền 6.710.000 đồng.

Ngoài ra, gia đình 11 bị cáo có tên trên đóng góp thêm số tiền 9.515.000 đồng. Tổng số tiền bồi thường của gia đình 11 bị cáo là 90.000.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Nguyễn Hoàng Thái H7 bồi thường số tiền 10.000.000 đồng.

- Gia đình bị cáo Nguyễn Bá T1 bồi thường số tiền 10.000.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số: 96/CT-VKS-P2 ngày 09 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo Rah Lan S, Siu A, S, Kpă H, Rah L, Như, Siu L3, Siu B1, Siu B, Rmah K, S, Nguyễn Hoàng Thái H7, Nguyễn Bá T1 phạm tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2023/HS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Tuyên bố: các bị cáo Rah L2 SiÔn, Kpă H, S, Siu B, Rmah K, phạm tội “Giết người”.

1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 (không áp dụng đối với bị cáo Rah Lan S, Kpă H), Điều 58 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Rah Lan S từ 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Kpă H 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Siu B1 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Siu B 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Rmah K 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Siu A, Siu P1, Rah L, Như, Siu L3, S, Nguyễn Hoàng Thái H7, Nguyễn Bá T1; về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vào các 25/9/2023, 27/9/2023, 28/9/2023 và 29/9/2023, các bị cáo Kpă H, Rmah K, Rah Lan S và Siu B lần lượt có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 26/9/2023, bị cáo Siu B1 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, S, Siu B1 và Rmah K thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo là quá nặng so với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo Rah Lan S, Kpă H là Luật sư Dương Phúc H5 phát biểu ý kiến: Thống nhất tội danh mà bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục một phần hậu quả, đã tự nguyện ra đầu thú; các bị cáo đều chưa có tiền án tiền sự, là người dân tộc học vấn thấp, là lao động chính trong gia đình, đồng thời áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Rah Lan S và Kpă H.

Người bào chữa cho bị cáo Siu B1 là Luật sư Huỳnh Túy G phát biểu ý kiến: Về tội danh, Luật sư thống với quyết định của bản án sơ thẩm. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo có vai trò giúp sức không đáng kể và bị cáo chưa tác động gì đến bị hại, để giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo Siu B và Rmah K là Luật sư Trần Thị Ngọc D phát biểu ý kiến: Ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng, các bị cáo còn có tình tiết khác là phạm tội lần đầu, vai trò không đáng kể, là lao động chính trong gia đình, là người dân tộc, học vấn thấp không nhận thức được hết hành vi phạm tội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Siu B và Rmah K.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B1, Siu B và Rmah K thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của cá bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của các bị cáo khác, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

[2.1] Khoảng 15 giờ ngày 10/4/2022 tại khu nhà trọ cho thuê của ông Ngô Văn D2 địa chỉ: tổ D, ấp A, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai, do mâu thuẫn trước đó giữa Rah Lan S và nhóm của anh R Thát nên Rah Lan S đã rủ Siu A, S, K, Rah L, Như, Siu L3, Siu B1, Siu B, R, Siu K1, Nguyễn Hoàng Thái H7, Nguyễn Bá T1 mang hung khí là dao Thái Lan, dao tự chế, gậy, gạch đá đi tìm đánh nhóm của anh Rlan T để trả thù. Trong lúc xảy ra đánh nhau, các bị cáo sử dụng dao đâm chém anh Rmah P2 làm thủng thùy phổi, đứt nhu mô thận và động tĩnh mạch thận trái, gây mất máu dẫn đến tử vong.

[2.2] Chỉ vì bị nhóm của Rlan T đánh gây thương tích nhẹ trước đó nên bị cáo Rah Lan S đã tập hợp nhiều bị cáo khác mang hung khí đi đánh trả thù, quá trình tìm đánh anh Rlan T, các bị cáo đã dùng hung khí tướt đoạt tính mạng của bị hại mặc dù giữa các bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì trước đó. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, hung hăng, thích giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực, coi thường pháp luật, mạng sống con người.

[2.4] Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B1 và Rmah K phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng của bị hại, gây đau thương, mất mát cho gia đình bị hại, tạo tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân, đồng thời còn gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B1, Siu B và Rmah K.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B1, Siu B và Rmah K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và áp dụng cho các bị cáo các tình tiết giảm nhẹ gồm: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra, gia đình các bị cáo đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 145.000.000 đồng, được đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; Các bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú; các bị cáo là người dân tộc trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế; gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, được quy định tại theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Siu B, Rmah K. Xét thấy, đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, các bị cáo tụ tập đông người mang theo nhiều hung khí tìm đến nơi ở của người khác để gây án, cho thấy sự coi thường pháp luật của các bị cáo. Trong đó, bị cáo Rah L2 Siôn là người lôi kéo các bị cáo khác phạm tội, bị cáo Kpă H có vai trò tích cực khi trực tiếp chém vào đầu bị hại, các bị cáo Siu B1, Siu B và Rmah K mang hung khí giúp sức tạo sự áp đảo về số lượng và tham gia đuổi đánh nhóm bị hại. Bản thân các bị cáo Rah Lan S, Kpă H và Siu B1 có nhân thân xấu, từng bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục phạm tội với mức độ nghiêm trọng hơn. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Rah Lan S và Kpă H 17 năm tù, Siu B1, Siu B và Rmah K 11 năm tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi của các bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

[5] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B và Rmah K, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[6] Ngoài ra, về lý lịch của bị cáo Kpă H, hồ sơ vụ án thể hiện tại các Bản sao giấy khai sinh số 525/GKS-BS ngày 13/9/2023 và số 546/GKS-BS ngày 04/8/2022 của Ủy ban nhân dân xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai (BL 887, 888) và phần thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm, có cơ sở xác định bị cáo Kpă H có 02 người con là Siu T3, sinh năm 2014 và Siu H8’ An Nhiên, sinh năm 2022. Bản án sơ thẩm tại phần lý lịch của bị cáo lại ghi bị cáo chưa có con, là chưa đúng nên cần sửa lại cho đúng với lý lịch tư pháp của bị cáo.

[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B và Rmah K phải chịu theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B và Rmah K. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 143/2023/HS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Tuyên xử:

[1] Tuyên bố: các bị cáo Rah Lan S, K, S, Siu B, Rmah K phạm tội “Giết người”.

[2] Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 (không áp dụng đối với bị cáo Rah Lan S, Kpă H); Điều 58 Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Rah Lan S từ 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Kpă H 17 (mười bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Siu B1 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Siu B 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Rmah K 11 (mười một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 4 năm 2022.

[3] Tiếp tục giam các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B1, Siu B, Rmah K để đảm bảo thi hành án.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Rah Lan S, Kpă H, Siu B, Siu B và Rmah K mỗi bi cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

399
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 92/2024/HS-PT

Số hiệu:92/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về