Bản án về tội giết người số 92/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 92/2022/HS-PT NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình. Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý 1170/2021/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2021/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

1. Các bị cáo có kháng cáo:

1.1. Trần Thị X, sinh năm 1997, tại huyện Đ, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn T, sinh năm 1962 và bà Bùi Thị L, sinh năm 1963; Chưa có chồng; Có 01 con sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/6/2020, đến ngày 16/6/2020 chuyển tạm giam; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thái Bình. Có mặt.

1.2. Hoàng Thế V, sinh ngày 28/10/2002; tại huyện V, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: thôn S, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Ngọc A, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1979: Chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2020, đến ngày 16/6/2020 chuyển tạm giam; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Thái Bình. Có mặt.

2. Bị hại: Anh Vũ Xuân H, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: thôn L, xã X, huyện T, tỉnh Thái Bình; Đã chết ngày 07/6/2020.

Đại diện hợp pháp của bị hại không có kháng cáo, kháng nghị: Bà Lê Thị N, sinh năm 1958; Trú tại: thôn L, xã X, huyện T, tỉnh Thái Bình. Ông Vũ Xuân H, sinh năm 1949; Trú tại: thôn H, xã M, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Đều vắng mặt.

3. Ngoài ra trong vụ án còn có: 18 (mười tám) bị cáo, 02 (hai) người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không có kháng nghị; Tòa không triệu tập.

4. Người bào chữa cho các bị cáo do Toà án chỉ định:

4.1. Bào chữa cho bị cáo Hoàng Thế V: Luật sư Phạm Văn H - Văn phòng luật sư Thái Bình, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình. Có mặt.

4.2. Bào chữa cho bị cáo Trần Thị X: Luật sư Nguyễn Văn H - Văn phòng luật sư Thái Bình, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lại Bá Khánh M, Hoàng Văn L đều làm dịch vụ cung cấp nhân viên nữ đi phục vụ rót bia, bấm bài tại các quán karaoke. Do thấy Lộc thường đưa nhân viên của Lộc đến phục vụ khách tại quán Karaoke Diamond, thuộc địa phận xã Đông Xuân, huyện Đ, nên Minh quyết định sẽ bắt số nhân viên của Lộc về làm cho Minh, đồng thời dằn mặt Lộc. Minh khai Vũ Xuân H thường gọi là “Hòa Con” (là bị hại trong vụ án) bảo Minh làm việc này.

Khoảng 19 giờ ngày 06/6/2020, Minh cùng Vũ Văn Ngọc, Đặng Ngọc A, Bùi Quang T, Dương Văn Duy, Lê Đức Hiền, Vũ Tiến B, Vũ Thành Đoàn đã đến quán karaoke Diamond thuê phòng hát, gọi nhân viên phục vụ, sau đó đã bắt chị Hồ Thị Bích Hằng, Nguyễn Thị Mỹ Huyền (là nhân viên của Lộc) đưa về phòng trọ Minh thuê ở xã Vũ Chính, thành phố Thái Bình. Khi Hoàng Văn L đang ở quán Karaoke Sông Hương ở thị trấn Đ, biết tin nhân viên của mình bị bắt. Lộc cùng Trần Thị X (là người cùng Lộc quản lý nhóm nhân viên phục vụ quán Karaoke), Phạm Đình N, Phạm Xuân H, Trần Văn C (em trai Xuyến), Nguyễn Cao P đi xe ô tô biển kiểm soát 17A-103.30 do Chính điều khiển đến quán Diamond để xem xét sự việc. Nguyễn Bá T, Phạm Trọng Công (thường gọi là Đạt), Phạm Tiến D, Bùi Văn T, Lương Xuân Tiến, Trần Văn Dương đi xe máy đến quán Diamond sau. Trên đường đi từ quán Sông Hương đến quán Diamond, Lộc bảo Hệ gọi nhóm thanh niên ở xã M, huyện V, tỉnh Nam Định sang hỗ trợ. Xuyến, Nam cùng nghe thấy nhưng không phản đối gì. Hệ gọi qua ứng dụng Messenger cho Vũ Đức M, Mạnh đang ở cùng Phạm Đức T, Phạm Tiến A, Hoàng Thế V, Nguyễn Văn C và Phạm Quang K. Trọng là người nghe điện thoại, Hệ nói với Trọng: “Bây giờ bên anh đang có việc, giờ bên em có đông người không?” Trọng nói: “Bên đây cả em là có 6 anh em, có việc gì đấy anh?”. Hệ nói: “Bên anh bị bắt 2 con nhân viên hát, các em sang hộ anh”. Trọng đồng ý và nói lại với nhóm bạn của mình về việc Hệ nhờ, cả nhóm hiểu là sang Thái Bình để giúp tìm người, nếu xảy ra đánh nhau thì hỗ trợ về vũ lực. Sau đó tất cả đi 02 xe taxi sang Thái Bình. Khi đi, Vinh mang theo 01 con dao gấp (Vinh đặt mua trực tuyến trên trang mạng “shopphuot24h” từ trước). Đặc điểm dao: dao bằng kim loại màu nâu, cán dài khoảng 10cm, lưỡi dài khoảng 10cm, bản rộng khoảng 02cm, mũi nhọn. Quá trình điều tra, Vinh khai là dao gấp, sáu đó Vinh khai do trước đây nhớ không chính xác, khẳng định dao mà Vinh mang theo người là dao bấm. Việc Vinh mang theo dao không ai biết. Khi nhóm của Lộc đến quán Diamond, biết nhóm của Minh là người đã bắt nhân viên nữ của mình, nên đi tìm Minh. Lộc gọi điện cho Minh nhưng không được. Vì biết Minh là “đàn em” của Vũ Xuân H, nên Lộc gọi điện cho Hòa nói: “Anh có quen thằng Minh Giang, Minh Rambo không? Nó vừa bắt người nhà em đi rồi”, “ý anh xử lý thế nào”. Hòa nói: “Thằng Minh nó là em anh, nó vừa về làm cho anh”, “Đợi tí anh bảo nó gọi lại cho mày”. Tiếp theo, Lộc gọi điện bảo Dũng: “Cầm cho mượn ít đồ” (cả Dũng và Lộc đều hiểu là hung khí), đồng thời Lộc bảo mọi người lên xe ô tô đi tìm Minh. Khi đến đoạn đường Quốc lộ 10 cũ thuộc xã Đông Xuân thì dừng lại. Sau đó Chinh lái xe chở Xuyến, Nam, Hệ đi về thị trấn Đ để cất xe ô tô, sau đó Xuyến, Nam, Hệ, Chinh đi 2 xe taxi để quay lại xã Đông Xuân.

Sau khi nhóm của Minh đưa chị Hằng và chị Huyền về phòng trọ tại xã Vũ Chính, Minh nhận được điện thoại của Vũ Xuân H. Theo Minh Khai, Hòa nói với Minh: “Thằng Lộc nó vừa gọi điện cho anh, nó bảo muốn gặp em, em phi về Đ, bây giờ anh sang chủ nhân viên của nó, anh đánh vào mặt chúng nó”. Sau đó, Hòa nhắn tin gửi số điện thoại của Lộc cho Minh. Minh lấy điện thoại gọi cho Lộc nhưng đưa cho Ngọc Anh nói chuyện, lúc này Lộc đang đứng ở gần cây xăng Sông Vân đợi nhóm của Xuyến quay lại. Ngọc Anh nói với Lộc: “Mày có phải là Lộc Lư không?”. Lộc nói: “Mày là Minh à? Có phải mày đang giữ nhân viên nhà tạo không?”. Minh lấy điện thoại từ Ngọc Anh nói: “Bố mày cướp nhân viên nhà mày đấy thì có làm sao không? Mày đang ở đâu?”. Lộc nói: “Tao đang ở ngã ba Đông Xuân đợi mày đây”. Sau đó, Lộc gọi điện cho Xuyến, nói: “Em đi đến đâu rồi? Thằng Minh vừa nổ với anh, tí nó về”. Lúc này 2 xe taxi chở Xuyến, Hệ, Nam, Chinh đi đến khu vực cầu Đông Năm, xã Đông Động, huyện Đ. Hệ nói với Xuyến: “Tao gọi đội Nam Định sang rồi đấy”. Khi Xuyến, Hệ, Nam, Chinh đến ngã ba Đông Xuân gặp nhóm của Lộc, Lộc nói với Xuyến: “Thằng Minh nó hẹn anh ở đây, tí nó đến”. Trong lúc đó, Phạm Tiến D quay về nhà trọ của Lộc, lấy một thanh kiếm có vỏ gỗ mang đến ngã ba Đông Xuân, sau đó, Dũng cùng Bùi Văn T gọi điện bảo Nguyễn Hữu Chính ở xã Đông Sơn, huyện Đ chuẩn bị “đồ” gồm 2 con dao phóng lợn, để Dũng và Tiến đi xe mô tô đến lấy (Dũng và Tiến không nói với chính lấy đồ mang đi đâu làm gì). Dũng và Tiến đi đến cổng nhà Chính, gặp Chính lấy 2 con dao phóng lợn mang đến khu vực nhóm của Lộc đứng, giấu vào vệ cỏ ven đường 10 cũ đối diện cây xăng Sông Vân thuộc xã Đông Xuân.

Về phía nhóm của Minh: Sau khi gọi điện thoại cho Lộc, Minh bảo nhóm Ngọc chuẩn bị đồ, cả nhóm đều hiểu là chuẩn bị vũ khí để đánh nhau. Sau đó, Minh cùng Ngọc Anh và Tuấn đi bằng một xe mô tô đi trước. Ngọc, Bính và Lê Đức Hiền đi xe taxi về nhà Hiền, để lấy 01 gậy bằng ống tuýp sắt gắn 01 con dao tự chế, 01 dùi cui điện, Ngọc, Tuấn, Bính còn nhặt 03 - 04 viên gạch loại gạch xây dựng nhà để mang theo. Khi đi tới khu vực ngã ba Đông Xuân thấy có nhiều người, nên tất cả đi tiếp về phía Cầu Nguyễn, thị trấn Đ gặp Minh, Ngọc Anh và Tuấn.

Khi gọi điện cho Lộc và Minh, Hòa đang ở quán karaoke ở xã Đông La cùng Nguyễn Trọng H và một số người khác. Hòa bảo Hà đi cùng nhưng không nói đi đâu. Hòa điều khiển xe mô tô Wave Alpha không có biển kiểm soát (xe của anh Nguyễn Văn Kiên) chở Hà đi. Trên đường đi qua quán ăn đêm của chị Nguyễn Thị Nguyệt (ven đường Quốc lộ 10), Hòa chạy vào trong quán lấy 01 con dao bằng kim loại màu đen, bản rộng khoảng 07cm, dài khoảng 25cm, cán bằng gỗ, mang ra giắt vào xe mô tô rồi điều khiển xe chở Hà đi đến xã Đông Xuân.

Tại khu vực trước Công ty may MXP ven đường Quốc lộ 10, đối diện cây xăng Sông Vân, thuộc thôn Lê Lợi, xã Đông Xuân. Vũ Đức M, Phạm Đức T, Phạm Tiến A, Hoàng Thế V, Nguyễn Văn C và Phạm Quang K đi 02 xe taxi đến gặp nhóm của Lộc, Hệ, Nam, Xuyến. Khi nhóm thanh niên Nam Định xuống xe, Nam nói: “Bây giờ bọn anh bị cướp nhân viên, nhờ các em sang giúp anh tý”; Xuyến nói: “Các em giúp chị vụ này, chị không để các em thiệt”. Sau đó, Lộc bảo mọi người: “Bọn em tránh mặt đi, Hòa đang đến, để anh nói chuyện với Hòa, nếu có việc gì xảy ra thì mọi người ra hỗ trợ”, (Lộc và nhóm các bị cáo Nam Định đều hiểu, nếu nhóm của Lộc xảy ra xô xát thì ra hỗ trợ đánh nhau). Nam bảo lái xe của 02 xe taxi sang bãi đất trống, cạnh cây xăng Sông Vân đứng đợi. Lộc, Xuyến, Hệ, Chinh đứng ở ven đường gần chỗ biển quảng cáo của cây xăng Sông Vân đợi Hòa và Minh. Hoàng Văn An gọi điện thoại cho Vũ Gia Quang trú tại thôn Anh Dũng, xã Đông La đi xe Innova 15A-20871 đến đón An về. Lộc gọi điện cho Minh nói: “Bố mày đợi mày lâu lắm rồi”, Minh nói: “Con chó này việc gì mày cứ phải rối lên thế, bố mày về đây rồi”. Tiếp theo, Lộc gọi điện cho Hòa nói: “Thằng Minh hẹn em đã 30-40 phút rồi mà nó không đến là thế nào hả anh”. Hòa nói với Lộc: “Ý chúng mày như thế nào, mày thích Boxing hay như thế nào thì cho địa điểm hẹn gặp nhau luôn, một là nằm xuống hai là đứng lên”, Lộc bảo Hòa đi đến ngã ba xã Đông Xuân.

Khi Hòa chở Hà bằng xe mô tô tới chỗ gần biển quảng cáo của cây xăng Sông Vân, Hòa xuống xe, Lộc khoác vai Hòa để nói chuyện thì Hòa đẩy Lộc ra. Hòa cởi áo phông ném xuống đất, đồng thời lấy dao giắt ở xe mô tô cầm ở tay phải giơ lên nói: “Tao là Hòa con đây, thằng nào thích chết thì nhảy vào đây sô lô”.

Thấy vậy, Lộc giằng co với Hòa, Lộc bị dao cứa vào chiếc đồng hồ đeo tay và bị xước nhẹ ở cổ tay. Ngay lúc đó, Thuần chạy tới bãi đất trống cạnh cây xăng Sông Vân, lấy một con dao phóng lợn dài khoảng hơn 02m do Dũng mang đến để ở đó từ trước, vùng lên chém về phía Hòa, Thuần khai chém xuống nền bãi của cây xăng, cách vị trí Hòa đứng khoảng 01m. Hòa nói: “Thích thì bỏ đồ xuống sô lô”, nên Thuần bỏ dao xuống để đánh nhau, nhưng Hòa vẫn cầm dao tiến lại chỗ Thuần. Thấy vậy, Xuyến hô: “Anh em lên đâm chết nó đi”. Lúc đó, nhóm thanh niên Nam Định nấp trong xe taxi xuống xe lao ra. Trọng, Chiến, Khải, Tiến Anh nhặt gạch, đá ném về phía Hòa nhưng không trúng ai. Phương cũng chạy ra để tham gia xô xát, nhưng thấy đông người lao về phía Hòa, nên Phương không đuổi theo Hòa. Nam lấy chiếc dao phóng lợn, dài khoảng hơn 01 mét, do Dũng mang đến để ở bãi đất trống cạnh cây xăng đưa cho Mạnh, nói: “Em cứ làm đi, anh không làm được việc này. Cứ làm đi, không phải lo đâu, có việc gì bọn anh sẽ lo”. Trọng chạy đến nhặt dao phóng lợn (do Thuần vất xuống lúc trước) lao về phía Hòa. Hòa cầm con dao (lấy ở quán của chị Nguyệt) ném về phía Trọng, nhưng không trúng. Trọng cầm dao phóng lợn chém Hòa, nhưng Hòa bắt được cán. Hòa và Trọng giằng co dao và dùng tay đấm nhau. Khi Hòa, Trọng đang giằng co, Vinh chạy tới cầm dao bấm mang theo từ trước ở tay phải, đâm 01 nhát vào ngực trái đường nách trước anh Hòa, rồi rút dao ra. Do bị đâm, Hòa bỏ chạy về hướng thành phố Thái Bình. Nguyễn Trọng H thấy vậy cũng bỏ chạy cùng Hòa, vừa chạy vừa nhặt gạch ném về phía nhóm đang đuổi phía sau (không trúng ai) và dìu Hòa bỏ chạy. Lúc đó, Xuyến đang đứng cạnh Mạnh, hô: “Mạnh, em cứ làm cho chị, em làm đi, hết bao nhiêu chị cũng trả, chị lo hết cho em”. Mạnh cầm dao phóng lợn do Nam đưa cho trước đó đuổi theo một đoạn, chém với phía sau trúng vùng mông trái của Hoà, sau đó Mạnh không đuổi nữa, quay lại dùng dao phóng lợn chém vào xe mô tô của Hòa đang dựng ở mé đường. Lúc các đối tượng đang đuổi đánh Hòa, Nam nói với Xuyến: “Tao vừa bảo thằng Mạnh rồi, cứ làm đi, có gì người bên mình phải lo cho nó đấy”. Do bị đâm máu ra nhiều, Hòa bỏ chạy khoảng 300m thì kiệt sức ngồi ở ven đường cùng Nguyễn Trọng H.

Đối với nhóm của Minh, Ngọc Anh, Tuấn, Ngọc, Hiền, Bính, khi đi đến cầu Nguyễn - thị trấn Đ, do chưa gặp được Vũ Xuân H, nên đã đi về ngã ba xã Đông Xuân. Minh, Ngọc Anh, Tuấn đi mô tô trước còn Ngọc, Hiền, Bính đi taxi sau. Minh, Ngọc Anh, Tuấn đi đến khu vực cây xăng Sông Vận thấy Vũ Đức M đang đập phá chiếc xe mô tô, nhóm của Minh tưởng nhóm của Lộc đánh nhầm người. Khi thấy có người hô “Thằng Minh kìa”, nên Minh, Ngọc Anh, Tuấn rẽ luôn vào đường trong làng thuộc xã Đông Xuân để tránh, do thấy nhóm Lộc có đông người. Minh gọi điện cho Hòa nhưng không được. Khi Ngọc, Hiền, Bính đi taxi đến khu vực cây xăng Sông Vân, thì nhóm của Lộc đã đi hết, chỉ thấy có chiếc xe mô tô nằm ở đường. Taxi chở Ngọc, Hiền, Bính đi qua chỗ Hòa và Hà ngồi ở bên đường, do không biết đó là Hòa nên cả ba đi tiếp về phòng trọ ở xã Vũ Chính.

Đối với Vũ Xuân H, sau khi bị thương được Nguyễn Trọng H cùng anh Trần Bá Thế (do Hà gọi đến) chở đi cấp cứu bằng xe mô tô, nhưng anh Hòa đã chết trước khi đến Bệnh viện Đa khoa huyện Đ. Chiếc xe mô tô do anh Hòa đi đến hiện trường bị Mạnh đập phá hư hỏng một số bộ phận vỏ xe, đã được Mai Tuấn Anh sinh năm 2000 trú tại thôn Lễ Thần Đoài, xã Thái An, huyện T đến lấy mang về.

(Cơ quan điều tra đã quản lý) Lúc Hòa bỏ chạy từ cây xăng Sông Vân về hướng thành phố Thái Bình, Hệ nói với Lộc: “Thôi anh em mình té trước”, “Người của thằng Minh đang đến”. Hệ lấy xe mô tô Dream chở Lộc và Đạt (Công) về khu vực nghĩa trang thôn Lam Điền, xã Đông Đông, huyện Đ. Các bị cáo Nam, Tiến Anh, Chinh, Vinh, Chiến, Xuyến, Thuần, Phương, Trọng, Mạnh, Khải, Dũng đi 02 xe taxi về hướng Nam Định. Trước khi lên xe taxi, Chinh cầm theo một con dao phóng lợn ở hiện trường mang đi, Vinh cất dao bấm trong túi quần. Khi đi đến cầu Hòa Bình bắc qua sông Trà Lý, Nam bảo lái xe dừng lại ở giữa cầu, Nam cùng Chinh đẩy dao phóng lợn xuống sông. Nam biết Vinh đang cầm con dao bấm nên bảo Vinh vứt đi, Vinh đã ném dao xuống sông Trà Lý (cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy). Khi đến cổng trường Đại học Thái Bình thuộc xã Tân Bình, thành phố Thái Bình thì Nam, Chinh xuống xe còn Vinh, Chiến, Tiến Anh tiếp tục đi về Nam Định. Xe taxi chở nhóm của Xuyến khi đi từ hiện trường qua chỗ Hòa đang ngồi gục ở mé đường, Xuyến nói: “Kìa nó đang ngồi đây này, xuống đi, xuống đi” nhưng xe taxi không dừng lại và không ai xuống. Khi đi đến khu công nghiệp Tân Bình, xe taxi dừng lại và tất cả xuống xe. Xuyến gọi điện hỏi Lộc và Hệ đang ở đâu, được Lộc, Hệ cho biết đang ở xã Đông Động. Xuyến gọi điện thoại cho anh Vũ Gia Quang hỏi mượn chiếc xe Innova, anh Quang đồng ý. Xuyến bảo lái xe taxi chở Xuyến quay lại xã Động Động. Trong lúc Xuyến đi mượn xe, Thuần, Phương, Trọng, Mạnh, Khải, Dũng đi bộ dọc đường về phía Nam Định. Khi đang đi thì Nam gọi điện thoại cho Mạnh nhưng Trọng nghe máy, Nam hỏi vị trí nhóm của Trọng và hẹn gặp nhau tại ngã tư xã Tân Bình. Nhóm của Trọng thuê một xe taxi khác chở đến điểm hẹn và hai nhóm gặp nhau, sau đó thuê thêm một xe taxi rồi cả hai nhóm đi 02 xe taxi qua cầu Tân Đệ sang địa phận tỉnh Nam Định, các đối tượng xuống xe đứng chờ Xuyến. Về phía Xuyến, khi xe taxi chở Xuyến gần đến cầu Đông Năm, xã Đông Động thì thấy anh Quang đang dừng xe ô tô ở ven đường đợi. Anh Quý lái xe taxi quay lại khu công nghiệp Tân Bình đón Vinh, Trọng, Chiến, Anh đi về Nam Định còn Xuyến lên xe ô tô do anh Quang lái đi đến xã Đông Đông gặp Lộc, Hệ, Đạt. Lộc hỏi mượn xe và anh Quang đồng ý, đi xe mô tô của Lộc về nhà. Đạt điều khiển xe Innova chở Xuyến, Lộc, Hệ đón Mạnh, Khải, Thuần, Phương, Nam, Dũng, Chinh sau đó tất cả đi về khu công nghiệp Bảo Minh, xã M, huyện V, tỉnh Nam Định. Đến nơi, Hệ, Chinh thuê xe taxi quay về Thái Bình. Nam bảo Xuyến đưa tiền cho nhóm Nam Định để trả tiền taxi và đi thuê nhà nghỉ. Xuyến đưa 3.000.000 đồng cho Nam để Nam đưa cho Trọng. Sau đó, nhóm của Lộc, Xuyến đi sang Ninh Bình trốn. Trên đường đi, do anh Quang gọi điện đòi xe ô tô Innova, nên nhóm Lộc dừng lại quán ăn đêm ở thành phố Ninh Bình, chờ anh Quang đi taxi đến. Anh Quang đi theo hướng định vị gắn trên xe ô tô đến lấy lại xe ô tô và cùng Đạt, Thuần về Thái Bình, còn Xuyến, Nam, Phương, Dũng, Lộc đến một nhà nghỉ ở thành phố Ninh Bình ngủ. Đến gần sáng ngày 07/6/2020, Vinh và Trọng nhắn tin cho Nam bảo Nam chuyển tiền cho nhóm Vinh, Trọng để đi trốn. Nam giục Xuyến chuyển tiền cho nhóm Nam Định, Xuyến kiểm tra tài khoản còn 07 triệu đồng, nên chuyển khoản 06 triệu đồng cho nhóm Nam Định. Vinh đã nhờ anh họ là Nguyễn Phú Huấn, sinh năm 2001 trú tại xã M, huyện V cho số tài khoản 3211205045687 mang tên Nguyễn Phú Hào (là bố của Huấn) để nhận tiền chuyển khoản. Xuyến dùng số tài khoản 3405205266180 mang tên Bùi Thị Ngọc (chị dâu của Xuyến cho Xuyến dùng từ trước), chuyển vào số tài khoản mang tên Nguyễn Phú Hào số tiền 06 triệu đồng. Huấn cầm 06 triệu đồng là tiền do bố Huấn là ông Nguyễn Phú Hào đưa, mang đưa cho Vinh. Vinh cùng đồng bọn dùng tiền đó đi thuê nhà nghỉ, ăn uống. Sau đó Vinh, Mạnh, Trọng, Lộc, Xuyến, Nam và Hệ đã đến Công an huyện Đ đầu thú.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 150/PY-PC09 ngày 16/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình, kết luận về nguyên nhân chết của anh Vũ Xuân H: Thương tích vùng ngực trái, mông và chân bên phải do vật sắc, nhọn gây nên, làm rách thủng phổi trái, rách quai động mạch chủ, bầm tụ máu khu trung thất. Nạn nhân Vũ Xuân Hoà chết do mất máu cấp.

Bản kết luận giám định pháp y số 78/20/TgT ngày 23/6/2020 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Thái Bình, về thương tích của anh Vũ Xuân Hoà (xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể trên vết thương ở mông của tử thi Vũ Xuân Hoà), thể hiện: Tại 1/3 dưới mông bên phải sát rãnh nếp lằn mông có vết rách thủng da. Đo: (1,3x1,2) cm. Khi khép mép da vết dài 2,2cm, bờ mép sắc gọn, đầu trên tù, đầu dưới nhọn, vết thương sạch, sâu 12cm, kết luận: Thương tích vùng mông bên trái do vật sắc nhọn tác động làm rách thủng da vùng mông bên trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 01%.

Báo cáo số 138 ngày 01/12/2020 của Ủy ban nhân dân xã Đông Xuân, huyện Đ, tỉnh Thái Bình báo cáo về việc tác động, ảnh hưởng của vụ việc xô xát đánh nhau vào đêm ngày 06/6/2020 tại thôn Lê Lợi 2, xã Đông Xuân, huyện Đ, tỉnh Thái Bình, Ủy ban nhân dân xã xác định: Sự việc diễn ra đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thôn Lê Lợi 2 nói riêng và của xã Đông Xuân nói chung. Hai nhóm thanh niên đã tụ tập đông người, đem theo hung khí, vũ khí, hô hào, ném gạch đá, tham gia xô xát, đuổi đánh nhau. Nơi xảy ra xô xát là địa điểm công cộng, nơi tập trung đông dân cư sinh sống, nhiều hộ kinh doanh và công ty đang hoạt động; đặc biệt diễn ra dọc tuyến đường Quốc Lộ 10 - tuyến giao thông huyết mạch, có nhiều phương tiện qua lại. Hành vi của hai nhóm thanh niên ngông cuồng, liều lĩnh coi thường pháp luật làm cản trở đến hoạt động bình thường tại khu vực, gây cản trở kinh doanh, buôn bán, cản trở việc đi lại lưu thông của các phương tiện giao thông, gây ồn ào, huyện náo làm ảnh hưởng đến việc sinh hoạt của các hộ dân sinh sống xung quanh. Sau sự việc xảy ra còn tạo tâm lý hoang mang, lo lắng, bất an và dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2021/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, đã quyết định: Tuyên bố: bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 52, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Trần Thị X 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 07/6/2020.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 58, Điều 91, Điều 101, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Hoàng Thế V 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 10/6/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Vũ Đức M, Hoàng Văn L, Phạm Đức T, Phạm Đình N, Phạm Xuân H, Nguyễn Bá T, Lại Bá Khánh M, Vũ Văn Ngọc, Đặng Ngọc A, Vũ Tiến B, Phạm Tiến D, Bùi Văn T, Bùi Quang T, Nguyễn Văn C, Phạm Tiến A, Phạm Quang K, Nguyễn Cao P, Trần Văn Chính; xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/11/2020, bị cáo Hoàng Thế V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 20/11/2020, bị cáo Trần Thị X kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Trần Thị X, bị cáo Hoàng Thế V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn nhận tội, ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình. Đề Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Thế V: Việc bị cáo Vinh bị xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo phạm tội khi chưa thành niên, nhận thức chưa đầy đủ, chưa ý thức được hậu quả của hành vi phạm tội, có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bồi thường cho gia đình bị hại, đại diện bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức thấp nhất.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Xuyến: Việc bị cáo bị xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội, bồi thường cho gia đình bị hại, đại diện bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ, bị cáo là mẹ đơn thân đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tặng nặng và giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: Bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; Về hình phạt: đối với bị cáo Trần Thị X đề nghị không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm; đối với bị cáo Hoàng Thế V phạm tội trong độ tuổi chưa thành niên, bị người khác lôi kéo, xúi giục, mặc dù nguyên nhân trực tiếp làm anh Hòa tử vong là do Vinh, nhưng cần xác định vai trò thấp hơn Xuyến, đại diện bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ, ăn năn hối cải, gia đình có công cách mạng, vì vậy, đề nghị chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Vinh mức hình phạt từ 14 năm tù đến 14 năm 06 tháng tù là thỏa đáng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Đối với đơn đề nghị của đại diện bị hại là bà Lê Thị N, ngày 19/11/2021 Tòa án cấp sơ thẩm đã có biên bản làm xác định không kháng cáo, mà chỉ làm đơn nêu ý kiến xin giảm nhẹ cho bị cáo Hoàng Thế V.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết là đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm; phù hợp lời khai của các bị cáo khác đã bị xét xử trong cùng vụ án gồm: Vũ Đức M, Phạm Đức T, Hoàng Văn L, Phạm Đình N, Phạm Xuân H, Phạm Tiến D, Bùi Văn T, Lại Bá Khánh M, Đặng Ngọc A, Vũ Tiến B, Bùi Quang T, Phạm Tiến A, Phạm Quang K, Nguyễn Bá T, Nguyễn Cao P, Trần Văn C, Nguyễn Văn C; phù hợp Biên bản khám nghiệm hiện trường, Bản ảnh hiện trường và sơ đồ hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi và bản ảnh tử thi Vũ Xuân H, Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 150/PY-PC09 ngày 16/7/2020, Bản kết luận giám định pháp y số 78/20/TCT ngày 23/6/2020; Lời khai của những người làm chứng: anh Nguyễn Trọng H, ông Vũ Văn T, anh Quách Mạnh C; Báo cáo số 138 ngày 01/12/2020 của UBND xã Đông Xuân; Biên bản kiểm tra và sao trích dữ liệu Camera hồi 06 giờ ngày 07/6/2020 tại cửa hàng lốp Thịnh Hưng ở thôn Lê Lợi 1, xã Đông Xuân, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Hoàng Văn L và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm, về hành vi phạm tội của các bị cáo như sau: Ngày 06/6/2020, Lại Bá Khánh M có hành vi bắt 02 nhân viên phục vụ quán karaoke của Hoàng Văn L đưa về nhà trọ của Minh thuê, nên Lộc đã bảo Phạm Xuân H gọi điện thoại nhờ Vũ Đức M, Phạm Đức T, Hoàng Thế V, Nguyễn Văn C, Phạm Tiến A và Phạm Quang K (đều là người Nam Định) sang Thái Bình để giúp giải quyết mâu thuẫn. Lộc gọi điện cho Vũ Xuân Hoà nói lại sự việc, sau đó gọi điện hẹn Hoà, Minh gặp nhau tại xã Đông Xuân, huyện Đ để giải quyết sự việc. Lộc đã bảo Phạm Tiến D, Bùi Văn T chuẩn bị hung khí là dao, phóng lợn mang đến địa điểm hẹn. Đến 21 giờ 28 phút cùng ngày, tại khu vực cây xăng Sông Vân thuộc xã Đông Xuân, huyện Đ, tỉnh Thái Bình, nhóm của Lộc gồm có Lộc, Nguyễn Thị Xuyến, Nguyễn Bá T, Phạm Đình N, Phạm Xuân H cùng 06 bị cáo ở Nam Định nêu trên. Lộc bảo cả nhóm tránh sang bên kia đường để Lộc nói chuyện với anh Hòa, nếu có việc gì xảy ra thì mọi người ra hỗ trợ đánh anh Hoà. Một lúc sau, khi anh Hoà đến, mang theo 01 con dao, hai bên xảy ra tranh chấp, Lộc và anh Hoà xô xát giằng co nhau, Nguyễn Bá T đã cầm 01 con dao phóng lợn xông lên chém về phía anh Hoà nhưng không trúng, Trần Thị X nhiều lần hô: “Anh em lên đâm chết nó đi”, “Anh em đâu ra đi”; Phạm Đình N đưa cho Vũ Đức M 01 con dao phóng lợn, xúi giục và kích động Mạnh đánh anh Hoà. Phạm Đức T cầm 01 con dao phóng lợn chém về phía anh Hoà nhưng không trúng. Khi Trọng và anh Hoà đang giằng co dao phóng lợn của Trọng và đấm nhau, Hoàng Thế V đã sử dụng con dao bấm mang theo từ trước, đâm 01 nhát vào vùng ngực bên trái, tương ứng khoang liên sườn số 6, đường nách trước của anh Hoà. Anh Hòa bị thương nên bỏ chạy về phía ngã tư Gia Lễ, Xuyến tiếp tục hô: “Mạnh, em cứ làm cho chị, em làm đi, hết bao nhiêu chị cũng trả, chị lo hết cho em”. Mạnh cầm dao phóng lợn đuổi theo chém với phía sau trúng vùng mông bên trái của anh Hoà. Anh Hòa được bạn là Nguyễn Trọng H dìu bỏ chạy được khoảng 300m thì không chạy được nữa và ngồi gục xuống đường, sau đó được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong trước khi đến Bệnh viện Đa khoa huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Trước khi Vinh dùng dao đâm anh Hoà, Phạm Tiến A, Phạm Quang K, Nguyễn Văn C có hành vi nhặt gạch tại hiện trường ném về phía anh Hoà nhưng không trúng ai; Nguyễn Cao P khi nghe Xuyến hô hào kích động đã chạy về phía đánh nhau, thấy nhóm người Nam Định dùng dao đánh anh Hoà, nên không tham gia nữa; Trần Văn C có hành vi tụ tập nhiều giờ cùng nhóm của Lộc ở khu vực cây xăng Sông Vân, tại hiện trường không đánh nhau và có hành vi nhặt chiếc phóng lợn mang đi khỏi hiện trường sau đó vứt xuống sông. Phạm Tiến D và Bùi Văn T có hành vi lấy dao và kiếm mang đến hiện trường giấu ở vệ cỏ, mục đích để đánh nhau với nhóm của Minh. Lộc bảo Tiến đi về do trước đó bị ngã đau, nên Tiến đã đi về trước khi anh Hòa đến. Quá trình đánh nhau, Dũng đứng yên một chỗ, không có lời nói, hành động gì. Lại Bá Khánh M, Vũ Văn Ngọc, Đặng Ngọc A, Vũ Tiến B, Bùi Quang T và Lê Đức Hiền có hành vi chuẩn bị và mang theo hung khí gồm gậy kim loại gắn dao tự chế, dùi cui điện, gạch, đi đến xã Đông Xuân mục đích đánh nhau với nhóm của Minh. Khi đến nơi thì nhóm của Lộc đã đánh anh Hoà và rời đi nên hai bên không xảy ra xô xát.

Hành vi của các bị cáo: Hoàng Thế V, Hoàng Văn L, Trần Thị X, Vũ Đức M, Phạm Đức T, Phạm Đình N, Phạm Xuân H, Nguyễn Bá T mặc dù không có mâu thuẫn trực tiếp với anh Vũ Xuân H, nhưng đã chuẩn bị hung khí nguy hiểm (dao phóng lợn, dao nhọn), hô hào, kích động và đâm, chém vào cơ thể anh Hoà làm anh Hoà bị chết. Vì vậy, hành vi các bị cáo đã phạm tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo các bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Hoàng Văn L, Vũ Đức M, Phạm Đức T, Phạm Đình N, Phạm Xuân H, Nguyễn Bá T không có kháng cáo, không bị kháng nghị, nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực.

Hành vi của các bị cáo: Lại Bá Khánh M, Vũ Văn Ngọc, Đặng Ngọc A, Vũ Tiến B, Bùi Quang T, Phạm Tiến D, Bùi Văn T có hành vi chuẩn bị hung khí nguy hiểm như dao, kiếm, dùi cui, gạch...mục đích để đánh nhau. Hành vi của các bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và xử phạt về tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại khoản 6 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị, nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực.

Hành vi của các bị cáo: Nguyễn Văn C, Phạm Tiến A, Phạm Quang K, Nguyễn Cao P, Trần Văn C có hành vi tụ tập nhiều giờ trên đoạn đường Quốc lộ 10, tại khu vực cây xăng Sông Vân thuộc thôn Lê Lợi 2, xã Đông Xuân, huyện Đ, tỉnh Thái Bình, là nơi tập trung nhiều dân cư sinh sống, nhiều hộ kinh doanh, công ty đang hoạt động, có nhiều phương tiện giao thông qua lại mục đích để đánh nhau, đã hò hét, ném gạch đá, đuổi đánh nhau hỗn loạn (từ khoảng 21 giờ 28 phút đến 23 giờ 58 phút), làm mất ổn định trật tự, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của các bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và xử phạt về tội: "Gây rối trật tự công cộng", theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị, nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực.

[3]. Xét kháng cáo giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Hành vi của các bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X mang tính chất côn đồ, hung hãn, không có cách ứng xử phù hợp để giải quyết các tranh chấp trong cuộc sống, các bị cáo đã rủ rê, lôi kéo nhau, tụ tập đông người, lập thành từng nhóm thực hiện các hành vi phạm tội, tước đoạt tính mạng của anh Hòa trái pháp luật, gây mất mát đau thương cho gia đình bị hại. Trong vụ án này, bị cáo Xuyến là người cùng Lộc quản lý nhóm nhân viên phục vụ quán karaoke, Xuyến được Lộc, Hệ thông báo đã gọi nhóm thanh niên ở tỉnh Nam Định sang hỗ trợ, nhóm thanh niên Nam Định đến Xuyến nói: “Các em giúp chị vụ này, chị không để các em thiệt”. Khi gặp anh Hòa, Xuyến hô: “Anh em lên đâm chết nó đi”, lúc đó nhóm thanh niên Nam Định nấp trong xe taxi xuống xe lao ra. Trọng, Chiến, Khải, Tiến Anh nhặt gạch, đá ném về phía Hòa, Phương cũng chạy ra để tham gia xô xát, Nam lấy chiếc dao phóng lợn Mạnh, Trọng chạy đến nhặt dao phóng lợn (do Thuần vất xuống lúc trước) lao về phía Hòa, Hòa cầm con dao ném về phía Trọng, Trọng cầm dao phóng lợn chém Hòa, nhưng Hòa bắt được cán, Hòa và Trọng giằng co dao và dùng tay đấm nhau. Khi Hòa, Trọng đang giằng co, Vinh chạy tới cầm dao bấm đâm 01 nhát vào ngực trái anh Hòa rồi rút dao ra, Hòa bỏ chạy về hướng thành phố Thái Bình. Xuyến đứng cạnh Mạnh, hô: “Mạnh, em cứ làm cho chị, em làm đi, hết bao nhiêu chị cũng trả, chị lo hết cho em”, Mạnh cầm dao phóng lợn đuổi theo một đoạn, chém với phía sau trúng vùng mông trái của Hoà, chém vào xe mô tô của Hòa đang dựng ở mé đường. Sau đó, khi xe taxi chở nhóm của Xuyến đi từ hiện trường qua chỗ Hòa đang ngồi gục ở mé đường, Xuyến nói: “Kìa nó đang ngồi đây này, xuống đi, xuống đi”, nhưng taxi không dừng lại và không ai xuống; Xuyến chi tiền 3.000.000đồng tiền cho nhóm Nam Định để trả tiền taxi và đi thuê nhà nghỉ; Xuyến chuyển khoản 06 triệu đồng cho nhóm Nam Định để đi trốn; Xuyến rủ Vinh, Mạnh là người chưa thành niên cùng tham gia phạm tội. Mặc dù không trực tiếp đâm anh Hòa, nhưng với hành vi thống nhất gọi nhóm Nam Định đến giải quyết mâu thuẫn, hô xông lên đâm chết anh Hòa, hứa giải quyết mâu thuẫn sẽ trả công, hứa lo hết mọi việc, khi anh Hòa bị Vinh đâm còn hô Mạnh đuổi theo chém, anh Hòa đang ngồi gục Xuyến còn yêu cầu mọi người xuống xe để đánh, Xuyến chi tiền trả taxi và chi tiền cho nhóm Nam Định đi trốn, xúi giục người chưa thành niên phạm tội. Vì vậy, cần xác định Xuyến là người cầm đầu, kích động, hô hào, xúi giục thúc đẩy người khác phạm tội, nên phải xác định Xuyến có vai trò chính trong vụ án. Đối với Vinh được nhóm Lộc gọi sang Thái Bình giải quyết mâu thuẫn, chủ động mang theo dao nhọn, khi nhóm Lộc xô xát với anh Hòa, được Xuyến hô hào, kích động, hứa hẹn đã lao lên dùng dao đâm 01 nhát vào ngực anh Hòa, nguyên nhân chính và trực tiếp làm anh Hòa bị tử vong, vì vậy, Vinh là người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm, tuy nhiên, xét vai trò của Vinh là người chưa thành niên, khả năng nhận thức tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội còn hạn chế, bị người khác xúi giục, hô hào, kích động, hứa trả công và lo mọi công việc, nên cần đánh giá vai trò của Vinh sau Xuyến, như quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là có căn cứ. Ngoài ra, bị cáo Xuyến bị áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là đúng. Do vậy, cấp phúc thẩm đồng tình cần có hình phạt nghiêm minh, việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ: sau khi phạm tội các bị cáo ra đầu thú, thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, tác động gia đình bồi thường, người đại diện của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, nên áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Bị cáo Vinh phạm tội khi chưa thành niên, nên được áp dụng Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đói với người đã thành niên phạm tội. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, xử phạt bị cáo Xuyến mức án 20 (hai mươi) năm tù là thỏa đáng, xử phạt bị cáo Vinh mức án 17 (mười bẩy) năm tù có phần nghiêm khắc. Tại cấp phúc thẩm, ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được cấp sơ thẩm áp dụng nêu trên, xét thấy, bị cáo Xuyến trình bày không có chồng nhưng có con nhỏ sinh năm 2014, do phạm tội nên phải nhờ người chăm sóc và nuôi dưỡng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là phụ nữ không hiểu biết pháp luật nên phạm tội. Đối với Vinh phạm tội khi chưa đủ tuổi thành niên; bị người khác rủ rê, lôi kéo, hô hào, kích động; đại diện bị hại tiếp tục có đơn xin giảm nhẹ; xuất trình đơn hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền xác nhận; có ông nội là Hoàng Như Lưu thương binh hạng 4/4 và được tặng Huân chương kháng chiến, đây là những tình tiết giảm nhẹ mới cần tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo; đồng thời xét nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo, một phần là do nhóm Minh và Hòa vô cớ bắt nhân viên của nhóm Xuyến và Lộc, khi xảy ra mâu thuẫn, thì anh Hòa cầm dao thách thức đánh nhau để giải quyết mâu thuẫn. Do vậy, kháng cáo của các bị cáo có căn cứ và được chấp nhận, cấp phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho cả hai bị cáo, thể hiện sự khoan hồng nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Quan điểm của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo: Đề nghị chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là có cơ sở, nên được chấp nhận.

[5]. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ, lập luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đối với bị cáo Xuyến đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm không được chấp nhận, đối với bị cáo Vinh đề nghị giảm nhẹ hình phạt là có căn cứ và được chấp nhận nhận.

[6]. Về Quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7]. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thế V, Trần Thị X kháng cáo được được chấp nhận, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị X, bị cáo Hoàng Thế V.

2. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 68/2021/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

2.1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Thị X 19 (mười chín) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2020.

2.2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Hoàng Thế V 15 (mười năm) năm tù, về tội: “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2020.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Thị X, bị cáo Hoàng Thế V không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

610
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 92/2022/HS-PT

Số hiệu:92/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về