Bản án về tội giết người số 886/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 886/2023/HS-PT NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố C xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 665/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Lê Trọng T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HS-ST ngày 26/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh H.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Trọng T, sinh ngày 10/6/1998, tại thành phố N, tỉnh H; nơi cư trú: Khu V, phường H, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quốc P và bà Lê Thái Hoàng N; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giừ từ ngày 23/9/2022 đến ngày 02/10/2022 chuyển tạm giam và đến ngày 28/4/2023 được gia đình bảo lĩnh đến nay (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Cao Thanh N1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố C (có mặt).

(Vụ án có bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 22/9/2022, sau khi nhậu xong tại nhà người bạn thuộc thị trấn B, huyện P, tỉnh H thì Lê Trọng T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 95E1-xxxxx chở Lê Đại H ngồi phía sau về nhà H ở khu vực X, phường H. Trên đường đi về nhà, H nhớ lại chuyện trước đó tại nhà trọ H1 giữa H và Trần Văn T1 có xảy ra mâu thuẫn và đồng thời nghe người khác nói lại về vụ việc T1 và Dương Văn P1 có đến nhà tìm H để đánh nên H tức giận và nảy sinh ý định tìm T1 và ông P1 đánh trả thù. Khi về gần đến nhà của mình, H nói với T: “Chút xíu nữa tới nhà mày đợi anh, anh vô nhà lấy đồ và chở anh xuống cầu T2 nhỏ đi công chuyện, rồi chở anh về dùm”, T đồng ý. Khi đi đến đầu hẻm đường vào nhà H thì T dừng xe lại, H bước xuống xe và đi bộ vào nhà lấy một con dao tự chế dài 72 cm; lấy dao xong H quay trở lại chỗ T đang đợi. H lên xe kêu T chở đi, trên đường đi đến nhà T, T phát hiện Hữu có mang theo dao nên biết được H đi đánh nhau nên T hỏi H: “Anh đi công chuyện đem dao theo chi, thôi say xỉn rồi về ngủ đi anh ơi”. H trả lời: “Lỡ rồi, mày chở anh xuống cầu T2 nhỏ đi công chuyện cái về liền, mày sợ gì”, T không phản ứng gì và tiếp tục chở H đi. T và H chạy qua cửa nhà trọ H1 được một đoạn khoảng 02 mét, H kêu T dừng xe, H cầm con dao đi về hướng vào nhà trọ Hồ N. Khi đi vào trong nhà trọ, H nhìn thấy ông P1 đang ngồi dưới nền gạch trong phòng lễ tân để xem vết xước móng chân, đầu ông P1 đang cuối xuống nhìn, H đi đến vị trí ông P1 đang ngồi, sau đó H dùng hai tay cầm con dao mang theo trước đó chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào vùng đầu của ông P1, cùng lúc này ông P1 nhổm người đứng dậy, quay lại kịp thời phát hiện đưa hai tay lên dở nên bị H chém trúng vào cánh tay trái và trán. Sau khi chém ông P1 xong, H cầm con dao gây án chạy quay lại chỗ T đang đợi, T điều khiển xe mô tô chở H rời khỏi hiện trường, ông P1 được người dân đưa đi cấp cứu, điều trị thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 181/22/TgT ngày 26/9/2022 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế tỉnh H, kết luận đối với thương tích của ông Dương Văn P1:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Đa vết thương phần mềm.

- Nứt xương trán phải.

- Đứt lìa 1/3 dưới cẳng tay trái đã được khâu nối.

- Không vận động được cẳng bàn tay trái.

2. Kết luận:

2.1. Tỷ lệ thương tích từng vết thương:

- Vết thương giữa trán gây tổn hại sức khỏe hiện tại là: 12%.

- Đứt lìa 1/3 dưới cẳng tay trái đã được khâu nối gây tổn hại sức khỏe hiện tại là: 47%.

2.2. Tổng tỷ lệ thương tích gây tổn hại sức khỏe hiện tại là: 53%.

- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 62/23/TgT ngày 13/3/2023 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế tỉnh H kết luận: Vết thương giữa trán có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau. Đứt lìa 1/3 dưới cẳng tay trái có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước. Các vết thương trên do vật sắc bén gây nên.

- Tại Kết luận giám định số 1891/KL-KTHS ngày 30/3/2023 của Phân viện KHHS tại TP. kết luận: Không phát hiện máu người trên con dao gửi giám định.

Vật chứng và tài sản được thu giữ, tạm giữ trong vụ án:

- 01 (một) con dao tự chế bằng kim loại màu vàng, kích thước chiều dài 72 cm (trong đó cán dao dài 30 cm và lưỡi dao dài 42 cm), đầu nhỏ nhất của phần lưỡi dao rộng 03 cm và phần lớn nhất của lưỡi con dao rộng 06 cm.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng - đỏ, biển kiểm soát: 95E1-xxxxx.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H đã xử lý trả lại cho ông Lê Quốc P: 01 (một) xe Yamaha Exciter 150, màu trắng - đỏ, biển kiểm soát: 95E1-xxxxx; số khung: RLCUG1010KY175298; số máy: G3D4E-943131.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HSST ngày 26/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh H quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt Lê Trọng T 06 (sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Bị cáo T được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/9/2022 đến ngày 28/4/2023 khi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt cho bị cáo Lê Đại H, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/8/2023, bị cáo Lê Trọng T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

1. Phần xét hỏi:

Bị cáo Lê Trọng T giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cung cấp thêm một số chứng cứ, tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

2. Phần tranh luận 2.1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trọng T phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên hình phạt 06 năm tù đối với Lê Trọng T là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đưa ra một số chứng cứ, tình tiết mới để xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên chứng cứ, tình tiết mới này không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm cho người bị hại, cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giừ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Trọng T.

2.2. Phần đối đáp của luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Trọng T: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát quy kết đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do vai trò của bị cáo tham gia trong vụ án, người bị hại cũng có đơn bãi nại cho bị cáo, ông nội của bị cáo có nhiều thành tích, được nhiều bằng khen để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

2.3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, người bào chữa cho bị cáo Lê Trọng T, bị cáo Lê Trọng T giữ nguyên quan điểm đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

3. Phần bị cáo Lê Trọng T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do gia đình bị cáo neo đơn, mức án tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là quá nghiêm khắc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị cáo Lê Trọng T đã thực hiện việc kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trọng T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

[2.1] Vào khoảng 18 giờ ngày 22/9/2022, sau khi nhậu xong đang trên đường về nhà thì bị cáo Lê Đại H nhớ lại mâu thuẫn trước đó với người bị hại là ông Dương Văn P1 và ông Trần Văn T1 nên đã lấy dao tự chế và nhờ bị cáo Lê Trọng T chở đến nhà trọ Hồng P2 để tìm ông P2 và ông T1 để trả thù. Tại nhà trọ Hồng P2, bị cáo H sử dụng dao tự chế dài 72cm chém 01 (một) nhát từ trên xuống dưới vào vùng đầu của ông P2, cùng lúc này ông P2 kịp thời phát hiện đưa hai tay lên đờ nên bị bị cáo H chém đứt lìa 1/3 dưới cẳng tay trái và bị thương vùng trán. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống hằng ngày nhưng với thái độ hung hăng, côn đồ, các bị cáo đã dùng dao tự chế chém vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, gây ra thương tích nặng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 181/22/TgT ngày 26/9/2022 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế tỉnh H, kết luận đối với thương tích của ông Dương Văn P1 kết luận tổng tỷ lệ thương tích gây tổn hại sức khỏe là 53%.

[2.2] Bị cáo nhận thức được hành vi dùng dao chém vào vùng đầu của người khác là vị trí trọng yếu trên cơ thể, có thể tước đoạt tính mạng của người bị tấn công nhưng vẫn cố tình thực hiện. Người bị hại không chết là ngoài ý muốn của các bị cáo, do người bị hại được cứu chừa kịp thời.

Hành vi của bị cáo Lê Trọng T là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân sinh sống tại khu vực.

[2.3] Với hành vi nêu tại mục [2.1] và nhận định tại mục [2.2], Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trọng T theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Trọng T:

[3.1] Bị cáo Lê Trọng T biết bị cáo H đem hung khí nguy hiểm đi chém trả thù người bị hại nhưng bị cáo T vẫn điều khiển xe chở bị cáo H đến nhà trọ H1 để bị cáo H dùng hung khí nguy hiểm chém ông P1, sau đó bị cáo T tiếp tục chở bị cáo H chạy trốn. Do đó, cần xác định bị cáo T có vai trò giúp sức tích cực trong vụ án. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo T không có tình tiết tăng nặng và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo T khó khăn; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo T đã đầu thú; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét các bị cáo phạm tội chưa đạt, bị cáo T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu từ đó xử phạt bị cáo T 06 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do bị cáo T thực hiện.

[3.2] Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đưa ra một số chứng cứ, tình tiết mới để xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tuy nhiên có chứng cứ là bản photo không có giá trị pháp lý và cũng không làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, cũng như đề nghị của người bào chữa cho bị cáo T, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên phần hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo T.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Trọng T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trọng T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh H.

1.1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lê Trọng T phạm tội Giết người.

1.2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Trọng T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án. Bị cáo T được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/9/2022 đến ngày 28/4/2023 khi thi hành án.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Trọng T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 886/2023/HS-PT

Số hiệu:886/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về