Bản án về tội giết người số 82/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 82/2022/HS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong các ngày 07 và ngày 10 tháng 6 năm 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 121/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H sinh ngày 23 tháng 5 năm 1999, tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký thường trú: tổ 1, khóm H, phường V, thành phố C, tỉnh An Giang; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 7/12; nghề nghiệp: công nhân; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh D sinh năm 1971 và bà Lê Thị T, sinh năm 1977; có vợ và có 01 người con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: ngày 12 tháng 10 năm 2018, Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 31 ngày 12 tháng 10 năm 2018 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 30 tháng 8 năm 2019, miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại.

Bị tạm giam từ ngày 18 tháng 5 năm 2021 cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Vũ Ngọc T – Luật sư của Văn phòng Luật sư Thanh và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương (có mặt).

- Bị hại: ông Võ Văn Đ sinh năm 1996; nơi đăng ký thường trú: ấp A, xã L, huyện T, tỉnh An Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời là người làm chứng:

1. Đinh Thị Tuyết M, sinh năm 2001; nơi đăng ký thường trú: tổ 2, khóm 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Nguyễn Thị Oanh K, sinh năm 1994; nơi đăng ký thường trú: ấp T, xã N, huyện A, tỉnh An Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3. Đinh Thị Thùy D, sinh năm 2000; nơi đăng ký thường trú: tổ 2, khóm 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt);

4. Chu Thị N sinh năm 1987; nơi đăng ký thường trú: xã V, huyện C, tỉnh An Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

Phạm Trọng N sinh năm 2002; nơi đăng ký thường trú: thôn 3, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Thị Tuyết M, sinh năm 2001 và Nguyễn Thị Oanh K, sinh năm 1994 là công nhân làm tại Công ty TNHH Hưng Xương, tại địa chỉ khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Trong thời gian làm việc, giữa M và K xảy ra mâu thuẫn.

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 19 tháng 7 năm 2020, K sử dụng mạng xã hội Facebook đăng trạng thái với nội dung chửi M. M và K nói chuyện qua lại và M hẹn K đến bãi đất trống thuộc khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương để nói chuyện giải quyết mâu thuẫn thì K đồng ý. Đến 18 giờ 00 phút cùng ngày, M kể cho chị gái của mình tên Đinh Thị Thùy D, sinh năm 2000, nơi cư trú: tổ 2, khóm 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang nghe sự việc. Lúc này có Võ Văn Đ (bạn trai của D) và Phạm Trọng N1 (bạn trai của M) đang ở cùng M và D nên M rủ đi cùng đến điểm hẹn để M gặp K nói chuyện, thì cả nhóm đồng ý. Phía K rủ bạn tên Chu Thị N và Nguyễn Thanh H cùng bạn của N tên M1 (chưa rõ lai lịch) đi cùng. Khi đến điểm hẹn, M nói chuyện với N và K về mâu thuẫn giữa M và K trong công ty. Trong lúc nói chuyện qua lại giữa hai bên xảy ra cự cãi dẫn đến xô xát thì N lao vào dùng tay đánh nhau với M, D dùng tay đánh nhau với K. Khi thấy D đánh K thì H đi đến dùng tay và nón bảo hiểm đánh D té ngã, thấy vậy Đ chạy đến can ngăn đẩy H ra thì H đi đến xe mô tô biển số 67E1 - 166.04 của H cách vị trí Đ đứng 2 mét mở cốp xe mô tô lấy con dao dài khoảng 15 cm cầm trên tay trái và đi đến nơi Đ đứng dùng dao đâm theo hướng từ dưới lên đâm 01 cái vào vùng ngực trái, 01 cái vào vùng bụng, 01 cái vào vùng hông phải, 01 cái vào vùng lưng phải, 01 cái vào vùng vai - lưng trái của Đ gây thương tích. Sau đó, H lấy xe mô tô biển số 67E1 - 166.04 cùng K, N1 và M1 bỏ đi. M cùng với D và N đưa Đ đến phòng khám Nhân Đức Sài Gòn để sơ cứu vết thương. Sau đó, Đ được đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương cấp cứu.

Đối với 01 (một) dao dài khoảng 15 cm, có cán bằng nhựa dài khoảng 09 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài khoảng 6 cm, rộng 01 cm mũi nhọn là hung khí gây án của Hùng hiện không truy tìm được.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 407 ngày 08 tháng 9 năm 2020, Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết thương vùng ngực trái 1 x 0,1cm, sẹo lành;

Vết thương vùng thượng vị 5,2 x 0,1 cm, vết thương dưới rốn lệch trái 0,5 x 0,3 cm; thấu bụng đứt cơ thẳng bụng trái, đã phẫu thuật bụng thám sát + cơ thẳng bụng, sẹo lành;

Vết thương hông phải 1 x 0,1 cm, vết thương vai trái – lưng 1,7 x 0,3, vết thương ngang đốt sống D10 lưng phải 1 x 0,2cm đứt cơ cạnh sống bên phải đã khâu, sẹo lành.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: là 22% (hai mươi hai phần trăm) theo tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 28 tháng 8 năm 2019.

Tại Công văn số 32 ngày 16 tháng 3 năm 2021 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh Bình Dương về việc tách tỷ lệ thương tật:

Vết thương vùng ngực trái 1 x 0,1cm, sẹo lành, được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể 01% (một phần trăm);

Vết thương vùng thượng vị 5,2 x 0,1 cm, vết thương dưới rốn lệch trái 0,5 x 0,3 cm; thấu bụng đứt cơ thẳng bụng trái, đã phẫu thuật bụng thám sát + cơ thẳng bụng, sẹo lành, được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể 19% (mười chín phần trăm);

Vết thương hông phải 1 x 0,1 cm, sẹo lành được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể 01% (một phần trăm);

Vết thương vai trái – lưng 1,7 x 0,3cm sẹo lành được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể 01% (một phần trăm);

Vết thương ngang đốt sống D10 lưng phải 1 x 0,2cm đứt cơ cạnh sống bên phải đã khâu, sẹo lành được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể 01% (một phần trăm).

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể (được tính theo phương pháp cộng lùi) của bị hại Võ Văn Đ do thương tích gây nên hiện tại là: là 22% (hai mươi hai phần trăm).

Tại Cáo trạng số 97/CT-VKS-P1 ngày 25 tháng 10 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương để xét xử bị can Nguyễn Thanh H về tội Giết người, quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội với nội dung giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau khi phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 07 (bảy) năm tù đến 08 (tám) năm tù về tội “Giết người” chưa đạt.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo, thống nhất các tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Đồng thời, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do bị cáo còn trẻ, quá nông nỗi không nhận thức hết hành vi của mình. Mong Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra – Công an tỉnh Bình Dương, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, truy tố đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, người này đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và được công bố tại phiên tòa, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ khoản 1 Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được trong vụ án, kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: vào ngày 19 tháng 7 năm 2020 tại khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Thanh H đã thực hiện hành vi dùng dao dài khoảng 15 cm cầm trên tay trái đâm ông Võ Văn Đ theo hướng từ dưới lên nhiều nhát vào vùng ngực trái, vùng bụng, vùng hông phải, vùng lưng phải và vùng vai, lưng trái gây thương tích với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 22% (hai mươi hai phần trăm). Hành vi đó của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Giết người” chưa đạt theo điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15 của Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại sẽ tước đoạt mạng sống của họ, bị hại được cứu chữa kịp thời nên không nguy hiểm đến tính mạng, việc bị hại không chết nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, chỉ vì giúp bạn gái trong việc giải quyết mâu thuẫn, khi Đ can ngăn bị cáo không ngừng việc hành hung người khác mà vẫn cố tình thực hiện hành vi dùng dao đâm bị hại, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Bị cáo có đủ năng lực nhận thức được hành vi phạm tội của mình nên phải chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã thực hiện. Như vậy, cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội, bị cáo sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: trong quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường số tiền 125.000.000 đồng cho bị hại Võ Văn Đ và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với hành vi của Đinh Thị Tuyết M, Nguyễn Thị Oanh K, Đinh Thị Thùy D, Chu Thị N tham gia đánh nhau bằng tay, không gây thương tích đã vi phạm vào điểm a, khoản 2, Điều 5, Chương 2, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương đã có Văn bản số 2725 ngày 10 tháng 9 năm 2021 đề nghị Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên theo quy định là có căn cứ.

[9] Đối với hành vi của Nguyễn Thanh H dùng nón bảo hiểm đánh Đinh Thị Thùy D không để lại thương tích và D không yêu cầu nên không xử lý.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[11] Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để giảm mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo là phù hợp.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Giết người” chưa đạt.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 15 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 5 năm 2021.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thanh H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 82/2022/HS-ST

Số hiệu:82/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về