TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 811/2022/HS-PT NGÀY 26/10/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 26 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 484/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Lục Văn T do có kháng cáo của ông Lôi Văn N là người Đ diện hợp pháp của bị hại; ông Lục V và bà Mã Thị S là Đ diện hợp pháp của bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2022/HS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
- Bị cáo bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Lục Văn T, sinh ngày 18/8/2004 tại tỉnh Đắk Nông, Nơi cư trú: Thôn 20, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông, nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Nùng; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục V, sinh năm 1970 và bà Mã Thị S, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ, con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2022. (có mặt) - Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Quang L (có đơn xin vắng mặt); Bà Mai Thị H (có mặt), Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lục Văn T (có kháng cáo): Ông Lục V, sinh năm 1970 (có đơn xin vắng mặt) và bà Mã Thị S, sinh năm 1968 (vắng mặt); Địa chỉ: Thôn 20, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
Người Đ diện hợp pháp của bà Sấy: Bà Lục Thị Th, sinh năm 1999; Địa chỉ: Thôn 15, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông là người Đ diện theo ủy quyền (Theo Giấy ủy quyền ngày 25/10/2022, có mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại (có kháng cáo): Ông Lôi Văn N, sinh năm 1966; Địa chỉ: Thôn 20, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
Người đại diện hợp pháp của ông N: Ông Hoàng Thanh Q, sinh năm 1998; Địa chỉ: Thôn 20, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông là người Đ diện theo ủy quyền (Thep Hợp đồng ủy quyền ngày 24/10/2022, có mặt).
- Người phiên dịch: Bà Hoàng Thị T – Công tác tại Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 10/2021, Lục Văn T và anh Hoàng Văn Đ (ở cùng xã nhưng khác thôn) gọi điện và nhắn tin thách thức nhau trên mạng xã hội. Khoảng 22 giờ, ngày 31/01/2022 (đêm giao thừa tết nguyên đán Nhâm Dần), Đ gọi điện cho T qua ứng dụng Messenger hẹn T gặp nhau tại khu vực nghĩa địa thôn 20, xã Đắk D để nói chuyện và giải quyết mâu thuẫn. Sau đó, T rủ Ninh Văn L, T Văn K, Vi Văn Th và Tô Thanh X cùng đi. Còn Đ rủ anh Thiềm Văn Đ1 đi xe mô tô đến điểm hẹn (khi đi hai bên không mang theo hung khí gì). Đến 23 giờ cùng ngày, nhóm của T và nhóm của Đ gặp anh Lội Văn T1 ở khu vực ngã ba nghĩa địa thôn 20, xã Đắk D (T1 một mình đứng ở đây). Sau khi gặp thấy là người quen nên Đ và T nói chuyện giảng hoà với nhau rồi Đ và anh Đ1 đi về trước. Lúc này T1 nói T sai và yêu cầu T phải đi xin lỗi Đ, thì T dùng tay đánh vào mặt làm anh T1 ngã ngửa xuống đất, anh Hoàng Văn L đi xe mô tô ngang qua thấy đánh nhau nên cùng mọi người vào can ngăn, rồi L kéo T đi bộ về nhà của anh L (cách đó khoảng 100m), T đến khu vực bồn nước của nhà anh L rửa chân, tay, còn T1 đi về nhà ông Cung Văn Th (đối diện nhà L) gặp anh Cung Văn H (con ông Th) và kể cho H biết việc mới bị T đánh. Lúc này, anh L, X, Th và K cũng vừa đi đến khu vực sân nhà anh H. Khi biết việc T đánh T1 thì anh H mượn xe mô tô của X đi về hướng khu vực nghĩa địa để tìm T. T đang rửa chân, tay thì thấy 01 con dao (dao Thái Lan, cán màu vàng, mũi dao nhọn) để ở cạnh bồn rửa, rồi lấy dao bỏ vào túi quần bên phải và đi đến ngồi trên xe máy dựng ở ngoài đường khi lấy dao thì có bà Trương Thị M (mẹ của L) Nn thấy. T nghe tiếng anh T1 đang ở sân nhà anh H la hét, chửi mắng nên T lấy chiếc mũ bảo hiểm màu cam treo trên xe chạy đến dùng mũ đánh vào vùng đầu T1, rồi T và anh T1 giằng co, ôm vật nhau trên sân đất nhà H. Khi anh T1 đang nằm ngửa thì T ngồi đè lên người T1, tay phải lấy con dao trong túi quần đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng bụng, ngực của anh T1. Thấy T và T1 tiếp tục đánh nhau nên mọi người vào can ngăn, kéo T và anh T1 ra, anh L thấy T cầm dao nên đến giật lấy dao và vứt vào khu vực vườn rẫy, anh T1 được đưa vào nhà anh H rồi đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong trước khi đến Bệnh viện. Đến khoảng 02 giờ ngày 01/02/2022, biết anh T1 đã tử vong nên T đến Công an xã Đắk D đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội.
Kết luận giám định số 206 ngày 18/02/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận trên con dao và dấu vết máu ghi thu ở hiện trường có máu của Lôi Văn T1 trên quần, áo của Lục Văn T không có máu.
Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 32 ngày 22/02/2022 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Đắk Nông kết luận nguyên nhân tử vong của Lôi Văn T1 là suy hô hấp cấp, suy tuần hoàn cấp do vết thương thấu ngực, xuyên thấu thùy dưới phổi phải và thùy trên phổi trái. Các vết thương do bị đâm bằng vật sắc nhọn.
Tại Cáo trạng số 14/CT-VKSĐN-P2 ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Lục Văn T về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2022/HS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tuyên xử:
1. Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn T phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lục Văn T 17 (Mười bảy) năm tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 01/02/2022.
2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 2 Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 591 của Bộ luật Dân sự:
- Chấp nhận việc gia đình của bị cáo đã bồi thường toàn bộ chi phí mai táng số tiền 84.332.000đ (Tám mươi tư triệu ba trăm ba mươi hai nghìn đồng) cho gia đình bị hại.
- Buộc bị cáo Lục Văn T phải bồi thường tổn thất tinh thần cho ông Lôi Văn N và Cung Thị Ph số tiền 149.000.000đ (Một trăm bốn mươi chín triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 20 tháng 6 năm 2022, ông Lục V và bà Mã Thị S là đại diện hợp pháp của bị cáo làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo T 17 năm tù là quá nặng, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ngày 15 tháng 6 năm 2022, ông Lôi Văn N là người đại diện hợp pháp của bị hại làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản thân ông không còn khả năng lao động đề nghị Tòa án xem xét buộc bị cáo phải cấp dưỡng cho ông theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đ diện hợp pháp của bị cáo nộp biên lai thu tiền 10.000.000đồng, giấy xác nhận hộ nghèo, bằng Tổ quốc ghi công của ông Lục Văn Khuầy là em của ông nội bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện hợp pháp của người bị hại (theo ủy quyền) yêu cầu bị cáo phải cấp dưỡng cho ông N số tiền 200.000.000đồng, vì ông N không có khả năng lao động.
Người bào chữa cho bị cáo cho rằng gia đình bị cáo luôn thể hiện thiện chí bồi thường cho gia đình bị hại, gia đình bị cáo thực tế cũng rất khó khăn, bố bị cáo bị bệnh không thể đến Tòa được, mẹ bị cáo không biết tiếng của người Kinh nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.
Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại cũng như kháng cáo của đại diện hợp pháp bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20 tháng 6 năm 2022, ông Lục V và bà Mã Thị S là đại diện hợp pháp của bị cáo và ngày 15 tháng 6 năm 2022 ông Lôi Văn N là người đại diện hợp pháp của bị hại có làm đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của ông V, bà S, ông N làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[2.1] Bị cáo Lục Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Bản cáo trạng đã truy tố và bản án sơ thẩm đã quy kết, trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thể hiện như sau:
Xuất phát từ việc mâu thuẫn do anh Lôi Văn T1 nói T phải đi xin lỗi Hoàng Văn Đ và tức giận vì nghe anh T1 chửi mắng nên khoảng 23 giờ ngày 31/01/2022 tại khu vực nghĩa địa thôn 20, xã Đắk D, huyện C, tỉnh Đắk Nông, Lục Văn T đã xô xát và đánh nhau với anh T1 được mọi người can ngăn, rồi T đi về nhà anh Ninh Văn L ở cách đó khoảng 100m lấy 01 con dao thái lan, cán nhựa màu vàng, mũi nhọn ở khu vực bồn nước. Khi thấy anh T1 đang đứng trong sân nhà ông Cung Văn Th ở đối diện nhà L chửi, thì T lấy chiếc mũ bảo hiểm đến đánh vào đầu T1, rồi hai người giằng co, ôm vật nhau dưới sân nền đất, T1 trong tư thế nằm ngửa, T ngồi đè lên người và lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng của T1 khiến T1 bị thủng thấu ngực, xuyên thấu thùy dưới phổi phải và thùy trên phổi trái gây tử vong trên đường đi cấp cứu. Sau khi biết anh T1 đã chết, T đến đầu thú và khai nhận nội dung sự việc.
[2.2] Đối chiếu với trường hợp phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Lục Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lục Văn T theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trực tiếp xâm phạm đến tính mạng người khác được pháp luật triệt để bảo vệ. Bị cáo ý thức được rằng việc dùng dao nhọn đâm vào những vùng trọng yếu của cơ thể người sẽ tước đoạt tính mạng của họ, là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, mong muốn cho hậu quả xảy ra bỡi tính côn đồ, hung hãn, xem thường pháp luật của bị cáo. Hành vi này gây hoang mang lo sợ, bất bình trong nhân dân, làm mất trật tự an ninh tại địa phương, vì thế cần thiết phải xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài để có biện pháp giáo dục, răn đe bị cáo đồng thời làm gương cho người khác.
[2.3] Bị cáo Lục Văn T sinh ngày 18/8/2004, tại thời điểm phạm tội bị cáo mới được 17 tuổi 04 tháng 13 ngày nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo với mức án 17 năm tù về tội “Giết người” là phù hợp với quy định của pháp luật như đã phân tích, trong đó có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại. Những tình tiết giảm nhẹ này được pháp luật quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[2.4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của người đại diện hợp pháp của bị cáo với lý do: Đã nộp tiền khắc phục 10.000.000đồng, gia đình hộ nghèo, có công với cách mạng. Xét thấy, bị cáo nộp tiền theo như bản án sơ thẩm đã tuyên, có người thân có công với cách mạng nhưng xét hành vi của bị cáo thực hiện với bị hại rất côn đồ, hung hãn nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[2.5] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại thì thấy: Ông Lôi Văn N vẫn còn trong độ tuổi lao động, ông N có 3 người con, bị hại là người con út nên ông N vẫn còn khả năng lao động và vẫn còn con cái để chăm sóc cho ông. Vì vậy, đề nghị cấp dưỡng của ông N là không có cơ sở để chấp nhận.
[3] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo và có đơn xin được miễn án phí nên Hội đồng xét xử xem xét miễn toàn bộ án phí cho bị cáo.
[5] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại về việc yêu cầu cấp dưỡng cho ông Lôi Văn N.
Sửa một phần Bản án Hình sự sơ thẩm số 18/2022/HS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về án phí.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lục Văn T phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Lục Văn T 17 (Mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 01/02/2022.
2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 2 Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 591 của Bộ luật Dân sự:
2.1. Chấp nhận việc gia đình của bị cáo đã bồi thường toàn bộ chi phí mai táng số tiền 84.332.000đ (Tám mươi tư triệu ba trăm ba mươi hai nghìn đồng) cho gia đình bị hại.
2.2. Buộc bị cáo Lục Văn T phải bồi thường tổn thất tinh thần cho ông Lôi Văn N và Cung Thị Ph số tiền 149.000.000đ (Một trăm bốn mươi chín triệu đồng).
2.3. Tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng do bà Lục Thị Th nộp thay bị cáo Lục Văn T tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông theo biên lai thu số 0000166 ngày 15/10/2022 để đảm bảo cho việc thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lục Văn T được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 811/2022/HS-PT
Số hiệu: | 811/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về