Bản án về tội giết người số 79/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 79/2023/HS-PT NGÀY 17/02/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 17 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1206/2022/TLPT-HS ngày 14/12/2022 đối với bị cáo Phan Văn H do bị cáo kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo kháng cáo:

Phan Văn H, sinh năm 1985 tại tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Phan Văn L và bà Đồng Thị N; có vợ và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 31/7/2022, tạm giam từ ngày 09/8/2022 đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo do Tòa án chỉ định: Luật sư Phạm Thế Đ, Văn phòng luật sư T, Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương; địa chỉ: tỉnh Hải Dương. Có mặt.

Trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/11/2021 H đưa 02 con về nhà mẹ đẻ H là bà Đồng Thị N ở thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương sinh sống. H làm nghề lái xe tải nên thỉnh thoảng mới về ở cùng bà N và các con. Ngày 19/7/2022, anh Phan Văn H1, sinh năm 1987 là em trai ruột của H đi lao động tại Đài Loan về và sinh sống cùng nhà với bà N.

Chiều ngày 30/7/2022, H đi làm, có uống bia cùng bạn, sau đó về nhà ăn cơm cùng bà N. Khoảng 19 giờ cùng ngày, bà N đưa các cháu ra nhà văn hóa thôn L chơi còn H ra sân nằm ở giường gấp xem video có kết nối âm thanh với loa bluetooth để trên cửa sổ. Khoảng 21 giờ cùng ngày, anh H1 đi uống bia với bạn và được anh Lê Khả T đi xe máy chở về. Thấy H mở nhạc to nên anh H1 nói “Tắt cái nhạc đi” rồi đi tắm. Sau khi tắm xong, anh H1 đi ra sân thấy H vẫn nghe nhạc nên lại nói “Tắt cái nhạc đi, bố đã bảo mày tắt đi cơ mà”. Thấy H không nói gì thì anh H1 đi ra cửa sổ lấy loa đập xuống đất, H nói “Mày thích thì đập đi”. Anh H1 đi về chỗ H đang nằm nói “Ý mày làm sao?”. H ngồi dậy thì bị anh H1 đấm 2- 3 cái trúng vào mặt, đầu nên H chạy vào trong nhà lấy dao tự chế để đánh lại. Anh H1 tiếp tục đuổi theo H vào trong nhà. H chạy tới đầu giường ngủ lấy 01 dao tự chế dài 60cm, có vỏ ngoài bằng gỗ màu đen cầm ở tay phải. Anh H1 lao vào giằng co với H làm dao tuột khỏi vỏ rơi xuống đất. H nhặt dao cầm ở tay phải chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống trúng thái dương trái của anh H1. Anh H1 lùi lại phía sau thì H tiếp tục cầm dao ở tay phải đâm liên tiếp nhiều nhát theo hướng chếch từ dưới lên trên, trúng bụng trái, tay trái, hông trái và bẹn phải của anh H1. Khi thấy dao bị cong không sử dụng được nữa thì H cầm dao bỏ chạy ra ngoài và ném dao xuống sân. Anh H1 đuổi theo ra ngoài và dùng tay đánh nhau với H. Do không đánh lại được anh H1 nên H bỏ chạy ra đường thì anh H1 tiếp tục đuổi theo. H chạy vào nhà bà Nguyễn Thị V (bán tạp hóa, cách nhà H khoảng 20 mét) lấy 01 chiếc kéo kim loại để ở bàn chạy ra ngoài đường để đánh nhau với anh H1. Thấy H cầm kéo, anh H1 bỏ chạy vào trong cổng nhà anh Phan Văn N thì va người vào cánh cổng khung sắt hàn lưới thép B40, H đuổi kịp dùng kéo đâm 01 nhát trúng vào lưng bên phải của anh H1, vết thương thấu thận, thông khoang bụng, rách nhu mô gan. Anh H1 bám hai tay vào cánh cổng và ngã ra đường làm cổng đổ đè lên chân trái. H tiếp tục dùng kéo đâm 01 nhát vào ngực trái anh H1, vết thương thông khoang ngực làm rách nhu mô thùy trên phổi trái, thấu tim, chảy máu khoang ngực, làm anh H1 gục ở đường. Khi thấy anh H1 không dậy được thì H cầm kéo đi về, ném chiếc kéo vào vườn nhà bà Nguyễn Thị H là hàng xóm. Anh H1 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương nhưng đã tử vong ngoại viện do mất máu cấp. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, H đến Công an xã H, huyện N đầu thú, giao nộp con dao tự chế.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường xảy ra vụ án tại khu vực nhà bà Đồng Thị N, sinh năm 1964 ở thôn L, xã H, huyện N. Nhà xây gian thò gian thụt, cửa chính quay hướng Nam. Gian thụt kích thước 4,9x3,9m. Trên nền phía Nam gian thụt sát mép cửa chính thấy dấu vết màu nâu nghi máu rải rác trên diện 3,8x2,7m. Góc gian phía Đông Bắc kê giường đôi kích thước 02x1,2m. Bàn và ghế phía Đông thấy màn gió của khung giường phủ lên, trên màn gió có vết màu nâu nghi máu kích thước 40x30cm, cao cách nền 40cm. Trên nền gian thụt có 01 quần đùi và 01 quần sịp màu đen. Góc gian thụt phía Đông Nam kê kệ gỗ kích thước 2,5x0,5m, ngăn bên trái mở, trong có một số quần áo tràn ra nền, phía dưới đống quần áo thấy 01 bao kiếm kích thước 0,52x0,06m. Góc gian phía Tây Nam thấy giá kim loại đổ xuống nền gian. Cách nền gian 2,07m, cách tường phía Đông của gian 2,14m thấy dây treo móc quần áo, trên có áo khoác gió màu xanh, bề mặt áo rải rác dấu vết màu nâu nghi máu kích thước 0,5x0,4 m. Thông giữa gian thụt và gian thò có cửa nhựa 1 cánh kích thước 2,09x0,79m. Trên bề mặt cửa phía ngoài (phía gian thụt) rải rác dấu vết máu kích thước 1,5x0,6m từ mép dưới cửa lên. Hiên nhà giáp phía Nam gian thụt kích thước 5,1x1,7m, trên nền hiên giáp cửa chính thấy dấu vết màu nâu nghi máu rải rác trên diện 1,6x1,4 m. Trên nền sân thấy giường gấp khung kim loại bạt vải, giữa nền sân thấy phần loa hình tròn đường kính 19cm, cách phần loa này 1,2 m về phía Tây thấy phần nắp loa. Cổng mở. Từ khu vực cổng vào giữa sân thấy rải rác dấu vết màu nâu nghi máu kích thước 07x02m. Đường thôn trước cổng nhà bà N rộng 03m, trên khu vực đường này cách mép cổng phải 1,13m, cách mép cổng trái 0,9m (theo hướng nhìn từ ngoài vào trong sân) thấy dấu vết màu nâu nghi máu rải rác theo chiều dọc đường về hướng Nam kích thước 9,6x2,6m. Đường thôn trước cổng nhà bà Hoàng Thị H rộng 04 m, cổng nhà bà H kích thước 2,46x2,25 m, một cánh khung kim loại lưới thép B40 đẩy Ngang. Trên khu vực nền cổng cách mép cổng phải 0,5 m, cách mép cổng trái 0,45 m (theo hướng nhìn từ cổng vào trong sân) thấy dấu vết màu nâu nghi máu kích thước 01x0,4 m. Trên khung kim loại mép cổng trái và thanh kim loại trên cổng, lưới thép cách nền cổng 0,6 m bám dấu vết màu nâu nghi máu kích thước 0,5x0,27m. Mặt phía Đông trụ cổng trái rải rác dấu vết màu nâu nghi máu diện 0,4x0,3m, cách nền 0,05m. Mở rộng hiện trường các khu vực xung quanh không phát hiện dấu vết gì liên quan.

Quá trình khám nghiệm đã thu giữ: Các dấu vết màu nâu nghi máu; 01 áo khoác gió màu xanh; 01 quần đùi; 01 quần sịp; 01 vỏ bao kiếm; phần loa, nắp loa bị vỡ. Tiến hành rà soát khu vực vườn nhà bà Nguyễn Thị Hằng, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc kéo dài 19,5cm, lưỡi kéo dài 9,5cm, chuôi màu đỏ. Quá trình rà soát camera khu vực hiện trường, Cơ quan điều tra đã quản lý 02 USB có chứa dữ liệu camera tại nhà bà Nguyễn Thị V và Nguyễn Thị M ở cùng thôn L, xã H, huyện N.

Kết quả khám nghiệm tử thi xác định: Tử thi mặc quần đùi thể thao màu đen, thân trước quần từ cạp xuống ống quần hai bên có vết cắt trong quá trình cấp cứu, tại ống quần trái dưới đũng quần 05cm cách đường chỉ trong 0,8cm có vết rách vải hình cung dài 2,5cm bờ mép tương đối gọn. Thân sau ống quần trái, dưới cạp quần 11cm cách đường chỉ ngoài 03cm có vết rách vải không rõ hình kích thước 1,5 x 01 cm bờ mép không gọn. Tử thi hai mắt nhắm, kết mạc mắt nhợt, tai, mũi, miệng khô, răng không gãy, tóc ngắn trạng thái ngấm máu. Da vùng thái dương trái cách đỉnh vành tai trái 6,5cm, cách chân tóc gáy 13cm có vết thương rách da theo chiều Ngang kích thước 3,4 x 0,6 cm, bờ mép tương đối gọn, còn cầu tổ chức. Mép trên vết thương này, cách đầu dưới vết thương 0,6cm có vết rách phụ lên trên dài 0,9cm tạo vạt lật ra sau dài 0,5cm. Vị trí cách đầu vết thương này 0,5cm có vết thương rách da dài 1,5cm thông với vết thương phía trên. Xung quanh hai vết thương này sây sát da trên diện 4,5 x 03 cm. Dưới đuôi mắt trái có vết thương rách da nông theo chiều Ngang kích thước 02x0,3 cm bờ mép vết thương tương đối gọn, còn cầu tổ chức. Da vùng ngực trái tương ứng vị trí khe liên sườn 4- 5, cách đường giữa 6,5cm có vết thương rách da chếch 45 độ so với trục dọc cơ thể kích thước 1,8x0,7 cm, bờ mép vết thương sắc gọn, thông khoang ngực. Mép trên vết thương này cách đầu ngoài 0,2cm có vết xước phụ dài 0,6cm. Dưới vết này 11cm cách đường giữa 03cm có đám sây sát da bầm tụ máu không liên tục diện 06x04cm. Mu bàn tay trái tương ứng đốt bàn ngón 2- 3 có vết thương rách da chếch 45O so với trục dọc cơ thể kích thước 2,8x01cm, để lộ tổ chức cân cơ bị đứt, bờ mép vết thương sắc gọn. Đầu trên vết thương này có vết xước phụ dài 0,6cm. Lòng bàn tay trái tương ứng đốt 1 ngón 3 có vết thương rách da hình chữ “L” kích thước 02x1,5cm tạo vạt lật xuống dưới để lộ tổ chức cân cơ, bờ mép vết thương sắc gọn. Da vùng bụng trái, sát gai chậu trước trên bên trái trên đường nách trước có vết thương rách da kích thước 01x0,7cm, sâu 5,5cm bờ mép vết thương tương đối gọn, có hướng chếch từ dưới lên trên, từ trái qua phải. Da vùng hông trái dưới gai chậu trước trên 13cm cách nếp lằn mông 01cm có vết thương rách da theo chiều dọc kích thước 1,5x0,3cm, sâu 01cm hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Da vùng bẹn phải có vết thương rách da kích thước 05x1,5cm bờ mép tương đối gọn, làm đứt lớp thượng bì, để lộ tổ chức cơ. Vết thương tù ở trên, nhọn ở dưới. Mặt trước cẳng chân trái, sát vị trí xương bánh chè có vết sây sát da nông không liên tục trên diện 04x1,5cm. Da vùng lưng phải cách bờ trên vai phải 30cm, cách đường giữa 5,5cm có vết thương rách da theo chiều Ngang kích thước 2,3x0,7 cm, đầu tù ở trong, nhọn ở ngoài. Vết thương thông khoang bụng, chiều hướng từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên. Mép dưới vết thương này cách đầu trong 0,4cm có vết thương rách da phụ dài 0,5cm. Trên vết thương này 4,5cm cách đường giữa 5,5cm có vết thương rách da nông theo chiều dọc kích thước 1,5x0,2cm. Da vùng thái dương trái, cách đường giữa 12,5cm tương ứng đường nách sau có vết thương rách da kích thước 0,9x0,5cm, sâu 01cm có hướng từ ngoài vào trong. Mặt trên, sau vai trái có đám sây sát da bầm tụ máu không liên tục trên diện 20x09cm, trong đám này còn nhận rõ các vết xước song song theo chiều Ngang, các vết xước cách nhau 0,8cm. Mặt sau vai trái tương ứng vị trí cực trên xương bả vai có vết thương rách da nông hình cung dài 12,5cm tạo vạt lật xuống dưới. Dưới vết thương này 0,5cm có đám sây sát da mất lớp thượng bì diện 3,5x0,4cm. Nắn ngoài: Hệ thống xương toàn thân không phát hiện dập gãy nghi vấn.

Mổ da đầu vùng thái dương trái thấy: Tổ chức dưới da và cơ tương ứng vết thương phía ngoài tụ máu nhẹ, da đầu không rách. Tổ chức cơ thái dương tại vị trí vết thương phía ngoài bầm tụ máu diện 02x01cm. Xương sọ tại vị trí không phát hiện tổn thương dập vỡ.

Mổ, mở khoang ngực thấy: Tổ chức dưới da và cơ vùng ngực trái tương ứng vị trí vết thương ngực trái tụ máu ngấm máu. Tại vị trí khe liên sườn 4- 5 có vết thương rách cơ, làm đứt gần hoàn toàn xương sườn số 4, thông khoang ngực trái. Xương ức và các xương sườn còn lại không phát hiện tổn thương nghi vấn. Khoang ngực trái chứa khoảng 2000ml máu không đông, lẫn máu cục. Khoang ngực phải khô. Phổi hai bên trạng thái xẹp, phổi phải không phát hiện tổn thương nghi vấn, trạng thái nhợt nhạt, bề mặt rải rác các đám xung huyết. Thùy trên phổi trái có vết rách nhu mô dài 01cm. Mặt trước bao tim trái có vết rách kích thước 02x0,5cm, xung quanh tụ máu ngấm máu diện 07x04cm. Trong bao tim chứa đầy máu không đông lẫn máu cục. Tim kích thước bình thường. Tại mặt trước thất trái cách mỏm tim 04cm có vết rách cơ tim dài 2,5cm làm đứt nhánh động mạch vành, thông buồng tim đến thành sau vách liên thất. Cắt qua tim, buồng tim chứa ít máu không đông. Cắt qua nhu mô phổi thấy có ít máu chảy ra. Lòng khí phế quản không phát hiện dị vật. Gốc phế quản hai bên chứa ít dịch bọt, niêm mạc xung huyết nhẹ. Thực quản không tổn thương, lòng thực quản chứa ít dịch dạ dày và dịch mật, còn nhận rõ mảnh rau. Niêm mạc không tổn thương.

Mổ khoang bụng thấy: Tổ chức dưới da và cơ thành bụng không phát hiện bầm tụ máu. Kiểm tra vùng bụng phải thấy tụ máu quanh hố thận phải. Thành sau bụng tương ứng vị trí khe liên sườn 11- 12 có vết rách cơ liên sườn dài 04cm, độ mở 0,6cm, xung quanh tụ máu ngấm máu diện 05x01cm. Mặt sau thận phải cách rốn thận 01cm có vết rách hình cung dài 02cm thông lên phía trên. Cắt qua nhu mô thận thấy đầu bể thận láng ít máu. Gan kích thước bình thường, màu nhợt nhạt, mặt dưới gan không phát hiện tổn thương, mặt sau gan tương ứng thùy phải cách bờ ngoài 04cm có vết rách nhu mô hình cung dài 2,5cm, sâu 0,7cm. Cắt qua nhu mô gan có ít máu chảy ra. Lách kích thước bình thường, màu nhợt nhạt không phát hiện tổn thương. Dạ dày chứa khoảng 500gam thức ăn lẫn dịch, còn nhận rõ mảnh rau. Niêm mạc xung huyết nhẹ. Các quai ruột nguyên dạng, trạng thái căng hơi, không phát hiện tổn thương nghi vấn.

Tại Biên bản tử vong của Khoa cấp cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương ngày 30/7/2022 thể hiện: Bệnh nhân Phan Văn H1 nhập viện hồi 21 giờ 14 phút ngày 30/7/2022 trong tình trạng mất ý thức hoàn toàn, tím tái toàn thân, không có nhịp thở, mạch cảnh và mạch bẹn không bắt được, nhiều vết thương khắp cơ thể (vết thương vùng đỉnh đầu trái, ngực trái, hạ sườn trái, hông trái, lưng phải, bẹn phải, mu bàn tay trái, vết thương phức tạp ngón 3 bàn tay trái). Bệnh nhân được cấp cứu ngừng tuần hoàn nhưng xác định đã tử vong trước khi đến Bệnh viện.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 220 ngày 03/8/2022, Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hải Dương kết luận đối với tử thi Phan Văn H1:

Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết thương vùng ngực trái làm đứt gần hoàn toàn xương sườn số IV, thông khoang ngực. Khoang ngực trái chứa khoảng 2000ml máu không đông lẫn máu cục. Thùy trên phổi trái có vết rách nhu mô. Mặt trước bao tim có vết rách, trong bao tim chứa đầy máu không đông lẫn máu cục. Tim, thất trái có vết rách cơ tim dài làm đứt nhánh động mạch vành, thông buồng tim đến thành sau vách liên thất.

Vết thương rách da theo chiều Ngang vùng lưng phải thông khoang bụng, thấu thận, rách nhu mô gan tại vị trí mặt sau thùy phải.

Các vết thương phần mềm: vùng thái dương trái, lưng trái, mu bàn tay trái, đốt 1 ngón 3 bàn tay trái, bụng trái, hông trái, bẹn phải. Sây sát da, bầm tụ máu không liên tục mặt trên, sau vai trái. Vết thương rách da nông hình cung mặt sau vai gáy.

Nguyên nhân chết: Mất máu cấp (vết thương thông khoang ngực, thấu tim, chảy máu khoang ngực; vết thương thấu thận phải, thông khoang bụng, rách nhu mô gan) Tổn thương chính dẫn đến tử vong của anh H1:

+ Vết thương vùng ngực trái, thông khoang ngực làm rách nhu mô thùy trên phổi trái, thấu tim, chảy máu khoang ngực. Vết thương này có hướng từ trái qua phải, từ ngoài vào trong. Tổn thương này do vật nhọn gây nên là phù hợp + Vết thương vùng lưng phải thấu thận, thông khoang bụng, rách nhu mô gan. Vết thương có hướng từ ngoài vào trong, hơi chếch từ dưới lên trên. Tổn thương này do vật nhọn gây nên là phù hợp.

Các vết thương phần mềm trên cơ thể anh H1: Vết thương vùng thái dương trái, bờ mép nham nhở còn cầu tổ chức, xung quanh sây sát da. Tổn thương này do vật tày gây nên là phù hợp.

Các vết thương còn lại trên người anh H1 do vật sắc nhọn gây nên là phù hợp. Nếu được cấp cứu kịp thời có thể anh Phan Văn H1 vẫn tử vong.

Cơ quan điều tra đã cho H nhận dạng chiếc kéo đã sử dụng để đâm anh H1, kết quả H nhận dạng được chiếc kéo đã sử dụng là chiếc kéo Cơ quan điều tra thu giữ tại vườn nhà bà Nguyễn Thị Hằng khi tiến hành rà soát, truy tìm vật chứng.

Tại Kết luận giám định số 5216 ngày 31/8/2022, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận đối với 01 con dao do Phan Văn H giao nộp khi đầu thú, 01 kéo kim loại thu giữ trong quá trình truy tìm vật chứng và 01 quần đùi màu đen thu giữ trong quá trình khám nghiệm tử thi, xác định: Trên chiếc kéo, trên con dao và trên chiếc quần đùi gửi giám định có dính máu người và là máu của anh Phan Văn H1.

Tại Kết luận giám định số 5790 ngày 13/9/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an đối với 01 USB nhãn hiệu Kingston chứa hình ảnh camera nhà ở của chị Nguyễn Thị M và 01 USB nhãn hiệu Sandisk chứa hình ảnh camera nhà ở của chị Nguyễn Thị V xác định: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các file video gửi giám định.

Quá trình điều tra đã cho H xem và xác định nội dung dữ liệu hình ảnh đã thu giữ tại camera nhà ở của bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị M, H xác định: Trong thời gian từ 20 giờ 39 phút 06 giây đến 20 giờ 56 phút 47 giây ngày 30/7/2022 có hình ảnh H lấy kéo và thực hiện hành vi dùng kéo đâm anh H1; trong khoảng thời gian từ 21 giờ 00 phút 00 giây đến 21 giờ 31 phút 41 giây ngày 30/7/2022 có hình ảnh H và anh H1 đuổi đánh nhau từ cổng nhà bà Đồng Thị N ra đường thôn L.

Tiến hành kiểm tra thời gian hệ thống thiết bị ghi hình tại nhà ở của bà Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị M xác định: Thời gian hệ thống thiết bị ghi hình tại nhà ở của bà V là đúng với thời gian thực tế tại thời điểm kiểm tra. Thời gian hệ thống thiết bị ghi hình tại nhà ở của bà M nhanh hơn thời gian thực tế tại thời điểm kiểm tra là 22 phút.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 09/11/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 39, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn H tù chung thân về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 31/7/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 15/11/2022, bị cáo Phan Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Văn H giữ nguyên nội dung kháng cáo, không cung cấp thêm các tình tiết mới, nhưng trình bày hoàn cảnh gia đình đã ly hôn con nhỏ không có ai nuôi, mẹ già và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về có trách nhiệm phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Bị cáo rất ăn năn hối hận, xin được giảm hình phạt để có điều kiện lao động, hoàn thành trách nhiệm chu cấp cho con của bị hại là cháu bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích đánh giá nguyên nhân, tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và căn cứ nội dung kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; hình phạt đối với bị cáo là phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, nhưng không có thêm các tình tiết giảm nhẹ mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan điều tra, truy tố trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

[2.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ, các kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 30/7/2022, tại nhà bà Đồng Thị N, sinh năm 1964 ở thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương, Phan Văn H đã sử dụng dao, kéo kim loại đâm vào ngực, lưng anh Phan Văn H1 là em trai ruột H. Hậu quả: Anh H1 bị các vết thương thông khoang ngực trái, thấu tim, chảy máu khoang ngực, vết thương thấu thận phải, thông khoang bụng, rách nhu mô gan và chết do mất máu cấp.

Về nguyên nhân vụ án: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt mà cả bị cáo và người bị hại đều không kiềm chế được, đã dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Bị cáo đã đâm nhiều nhát vào người anh H1. Sau khi cả hai đuổi nhau ra ngoài ngõ, bị cáo chạy vào lấy kéo, anh H1 đã quay người chạy đi, bị cáo vẫn tiếp tục đâm vào ngực, vào lưng bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện sự côn đồ, coi thường tính mạng người khác. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối lỗi; nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã ra đầu thú và hành vi của bị cáo cũng do có một phần lỗi của bị hại nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Nhưng Hội đồng xét xử xét thấy: Người bị hại là em ruột của bị cáo mà vì những điều nhỏ nhặt trong sinh hoạt lại chủ động xúc phạm, đập tài sản và đấm anh ruột (là bị cáo). Từ những hành vi khởi đầu của người bị hại mới dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa sơ thẩm, Vị đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị mức hình phạt tù có thời hạn là 20 năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo hình phạt tù chung thân là có phần nặng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy có cơ sở để chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Văn H, để bị cáo có cơ hội chuộc lại lỗi lầm, có điều kiện thực hiện trách nhiệm với con của người bị hại.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Phan Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Văn H; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương về hình phạt đối với bị cáo.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn H 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/7/2022.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

3. Về án phí: Bị cáo Phan Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 79/2023/HS-PT

Số hiệu:79/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về