TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 71/2022/HS-PT NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2022/TLPT-HS ngày 10 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lê Văn T về tội “Giết người”; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HSST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1170/2022/QĐXXPT-HS ngày 01 tháng 03 năm 2022.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Văn T, sinh ngày: 14/11/1988 tại huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nơi đăng ký HKTT: tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Văn H và bà Đỗ Thị T; có vợ Lê Thị L, sinh năm 1993; có 01 con, sinh năm 2015; Anh chị em ruột: có 03 người, T là con đầu trong gia đình; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 02/12/2013, Công an huyện Q xử phạt hành chính với hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự công cộng (đã chấp hành); Ngày 30/12/2019, Công an xã V xử phạt hành chính, bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc (đã chấp hành). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2021; có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: Luật sư Đỗ Ngọc T - Trung tâm tư vấn pháp luật, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo: Ông Lê Văn P, sinh năm 1991, địa chỉ: xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, luật sư Nguyễn Văn N - Văn phòng luật sư C, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Bình, có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có kháng cáo:
1/ Bà Lê Thị L, sinh năm 1993, địa chỉ: thôn L 1, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
2/ Ông Hà Văn T, sinh năm 1961, địa chỉ: thôn L 3, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
3/ Bà Hà Thị C, sinh năm 1975, địa chỉ: thôn L 2, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn T kết hôn với chị Lê Thị L vào năm 2015 và sinh được 01 con trai tên là Lê Công V. Cuối năm 2015, T xuất khẩu lao động sang Đài Loan, đến năm 2017 thì Lê Thị L cũng sang Đài Loan làm việc với T. Tháng 3/2019, Lê Văn T về nước ở với bố mẹ tại thôn Vĩnh Tuy 3, xã V, huyện Q và để con trai là Lê Công V cho bà Hà Thị T (là mẹ ruột của chị Lê Thị L) chăm sóc, nuôi dưỡng. Lê Văn T đã nhiều lần gặp bà Hà Thị T lấy số tiền 304.000.000đ (ba trăm linh bốn triệu đồng) để kinh doanh và chi tiêu cá nhân. Sau đó, Lê Văn T tiếp tục sang nhà bà T để lấy tiền, nhưng do chị Lê Thị L không đồng ý, nên bà T không giao tiền. T đã nhiều lần nhắn tin đe dọa chị Lê Thị L, giữa T với bà T xảy ra mâu thuẫn, nên T có ý định giết bà Hà Thị T.
Ngày 04/7/2021, T nhờ anh Phùng Trung T chở về khu vực Q để đón xe đi vào Đà Nẵng làm ăn. Sau đó, T đã đi theo đường sắt Bắc - Nam đến phía sau nhà bà Hà Thị T ở thôn L 1, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình tìm chỗ ẩn nấp để quan sát. T lấy kéo mài chốt làm rời hai lưỡi kéo ra để tiện cầm làm hung khí. Lợi dụng đêm tối, khoảng 02 giờ ngày 05/7/2021, T đã lẻn vào vườn sau nhà bà T tìm cơ hội gây án, nhưng không thành và tiếp tục ẩn nấp. Khoảng 19 giờ 30 cùng ngày 05/7/2021, sau khi đã chuẩn bị hung khí là 01 cái kéo và một số đồ dùng cá nhân đựng trong ba lô nhỏ mang theo người, Lê Văn T đã luồn qua lỗ thông hàng rào phía Tây Nam, vào vườn sau nhà bà T, nấp ở ụ rơm. Khoảng 15 phút sau, bà T đi từ trong nhà ra chuồng lợn phía sau nhà, phát hiện có dấu hiệu bất thường ở ụ rơm nên soi đèn đi về phía ụ rơm, lúc này T lấy hai lưỡi kéo từ trong ba lô cầm mỗi tay mỗi cái. Khi bà T đi đến cách chỗ T nấp khoảng 04 mét, T xông tới sát trước mặt bà T, thì bà T kêu lên: “Có kẻ trộm”. Lê Văn T không nói gì, hai tay cầm hai lưỡi kéo đâm nhiều nhát liên tục trúng vào vùng đầu, mặt, cổ, ngực bà T. Bà T vừa đi lùi vừa cúi người, T vẫn áp sát, tay phải đâm liên tục trúng vào phần ngực, sườn trái và tay trái của bà T. Bà T khuỵu chân, cúi thấp người xuống thì T đâm tiếp bằng cả hai tay, nhiều nhát trúng vào phần lưng của bà T. Khi bà T gục hẳn xuống và nằm bất tỉnh dưới đất, T mới bỏ đi khỏi hiện trường.
Bản kết luận giám định pháp y số 124/TT ngày 26/7/2021 của Trang tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh Quảng Bình, kết luận nguyên nhân chết và thời gian chết của tử thi Hà Thị T như sau: Dấu hiệu chính qua giám định: Dưới giữa xương đòn trái có vết thương kích thước 4 x 1,9cm, bờ mép sắc gọn, tụ máu, chiều hướng trên xuống dưới, trái sang phải, làm thủng cơ gian sườn 2-3, thủng thùy trên phổi trái, thủng màng ngoài tim, thủng thân động mạch phổi. Gian sườn 8-9 bên trái có có vết thương kích thước 1,6 x 0,9cm, bờ mép sắt gọn, tụ máu, chiều hướng dưới lên trên, trái sang phải, thủng cơ gian sườn, thủng màng ngoài tim, thủng mỏm tim ở phía dưới thất trái, qua buồng thất trái, tận cùng ở vách thất (đáy vết thương nhọn). 05 vết thủng thùy dưới mặt trước phổi trái và 03 vết thủng ở thùy dưới mặt sau phổi trái (tương ứng với các vết thương đã mô tả ở phần khám ngoài và khám trong). 01 vết thủng mặt trước thùy trên và 01 vết thủng mặt sau thùy trên phổi phải (tương ứng với các vết thương đã mô tả ở phần khám ngoài và khám trong). Khoang màng tim có máu lỏng và máu cục. Khoang ngực trái có máu cục, khoang ngực phải có máu lỏng khoảng 400ml, phổi trái xẹp hoàn toàn. Nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn cấp, suy hô hấp cấp do các vết thương làm thủng thân động mạch phổi, thủng buồng tim trái, thủng phổi hai bên. Thời gian chết: Dưới 24 giờ. Cơ chế hình thành vết thương: Các vết thương nêu trên do vật sắc nhọn gây ra.
Về dân sự: Đại diện gia đình nạn nhân, chị Lê Thị L (con gái bà T) kê khai chi phí mai táng và yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần, tổng số tiền 111.000.000đ. Gia đình Lê Văn T (bà Đỗ Thị Thuẫn) đã bồi thường 61.000.000đ (sáu mươi mốt triệu đồng). Còn lại 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) chị Lê Thị L yêu cầu tiếp tục bồi thường.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HSST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giết người”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm đ, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52, Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam, ngày 12/7/2021.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 591 Bộ luật dân sự, chấp nhận thỏa thuận bồi thường giữa đại diện gia đình bị hại và bị cáo, buộc bị cáo bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền còn lại 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/01/2022 bị cáo Lê Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do: Tòa sơ thẩm tuyên phạt mức án chung thân là quá nặng so với hành vi phạm tội; bị cáo xin giảm một phần hình phạt để sớm trở về nuôi con và trở thành người có ích cho xã hội. Ngày 01/01/2022, đại diện người bị hại - anh Lê Văn P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án gồm: Chị Lê Thị L, ông Hà Văn T, bà Hà Thị C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, với lý do: Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Văn T tù chung thân là chưa chính xác, chưa tương xứng đối với mức độ nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà Lê Văn T gây ra, không đủ sức răn đe bị cáo và răn đe, giáo dục về sau đối với các hành vi phạm tội nguy hiểm tương tự cũng như không mang lại công bằng cho gia đình phía bị hại chúng tôi. Bởi lẽ, Người bị hại không chỉ có quan hệ mẹ vợ - con rể với bị cáo mà còn là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng con đẻ của bị cáo từ khi còn nhỏ cho đến nay, vì nhiều lý do nhỏ nhặt phát sinh từ việc mâu thuẫn vợ chồng và để cần tiền chi tiêu mà bị cáo nhiều lần có hành vi đe dọa sẽ giết mẹ vợ và cuối cùng đã thực hiện hành vi. Hành vi không chỉ thể hiện tính chất côn đồ, động cơ đê hèn (theo điểm đ khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự), trái với luân thường đạo lý mà dường như còn cho thấy sự âm mưu, chuẩn bị từ trước nhưng không bị ngăn chặn kịp thời. Cách thức bị cáo thực hiện hành vi giết người không chỉ thể hiện tính chất côn đồ mà còn hết sức man rợ (theo điểm i khoản 1 điều 123 Bộ luật Hình sự) với hung khí là kéo và đâm rất nhiều nhát, để lại hiện trường vụ án man rợ, gây khủng khiếp, rùng rợn trong xã hội một thời gian dài, cho thấy bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội đã mất hết nhân tính, quyết thực hiện hành vi tới cùng (theo điểm e khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự). Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã nhanh chóng trốn khỏi hiện trường, lẩn trốn khỏi sự truy bắt của các cơ quan chức năng trong một thời gian khá dài, đồng thời thông tin đe dọa những người thân của gia đình bị hại, gây ra không khí căng thẳng, hoang mang trong dư luận, gây hao tổn công sức, tiền của, vật lực của các cán bộ điều tra (theo điểm p khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự). Việc đầu thú và khai báo không phải do sự ăn năn hối cải mà từ quá trình kiên quyết đấu tranh với tội phạm của cơ quan cảnh sát điều tra. Mức bồi thường thiệt hại chưa tương xứng với thiệt hại . Vì những lý do trên chúng tôi kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm xét xử ngày 30/12/2021 đề nghị xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm theo hướng tăng hình phạt thành tử hình đồng thời xem xét lại mức bồi thường cho tương xứng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn T vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, vì xử bị cáo tù chung thân là quá nặng. Đại diện người bị hại anh Lê Văn P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị L, ông Hà Văn T, bà Hà Thị C vẫn giữ nguyên kháng cáo tăng hình phạt từ chung thân lên tử hình và rút lại kháng cáo xem xét phần bồi thường đối với bị cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu quan điểm: Sau khi phạm tội, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú và vận động gia đình bồi thường thiệt hại; do vậy đề nghị HĐXX giữ nguyên mức án cho bị cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện bị hại nêu quan điểm: về các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm áp dụng là không hợp lý như: Tình tiết ăn năn hối cải thành khẩn khai báo là không đúng, vì bị cáo đã chủ động chuẩn bị phạm tội từ trước; đối với việc bồi thường thiệt hại là do gia đình bị cáo chứ bị cáo đang bị tạm giam không thể bồi thường được; đối với tình tiết đầu thú là không phù hợp do bị cáo bị bao vây bởi lực lượng vây ráp quyết tâm bắt tội phạm nên bị cáo không còn lối thoát. Về tình tiết tăng nặng : Bị cáo Triển đâm bà T đến 61 nhát dao là hành vi giết người rất man rợ, nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng theo điểm i khoản 1 Điều 123 BLHS. Bị cáo giết bà T là do bà không trả tiền cho bị cáo là động cơ đê hèn; bị cáo có những hành vi như giả đi xe vô Đà Nẵng, nhưng quay lại giết người, sau khi phạm tội xuống suối tắm xóa hết dấu vết tội phạm, do vậy cần áp dụng thêm tình tiết xảo huyệt, hung hãn để che dấu tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, ngoài ra còn có hành vi đe dọa giết vợ, giết con nên cấu thành tội đe dọa giết người. Trên cơ sở đó đề nghị HĐXX chuyển hình phạt từ chung thân lên tử hình đối với bị cáo.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng, về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo có hành vi nguy hiểm cho xã hội; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tòa án cấp sơ thẩm xử phạt chung thân là không nghiêm. Vì vậy đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại chuyển mức hình phạt từ chung thân lên tử hình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, đại diện người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo tăng nặng về hình phạt và rút lại yêu cầu kháng cáo phần bồi thường thiệt hại; HĐXX thấy rằng: Đối với phần kháng cáo về bồi thường thiệt hại sẽ được đình chỉ xét xử phúc thẩm; đối với phần kháng cáo tăng nặng hình phạt của những người liên quan sẽ không xem xét giải quyết, vì những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có quyền kháng cáo về hình phạt.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn T thừa nhận là có hành vi phạm tội “Giết người” như án sơ thẩm buộc tội, phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, của những người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm nên đã có đủ căn cứ xác định: Do mâu thuẫn chuyện gửi tiền cho mẹ vợ là bà Hà Thị T mà trong thời gian từ ngày 4 đến 19h30 ngày 5 tháng 7 năm 2021, bị cáo đã bằng mọi cách tiếp cận bà T và cầm 02 mảnh kéo trên 02 tay đâm liên tục 61 nhát vào người bà T khiến nạn nhân tử vong tại hiện trường, sau đó bị cáo bỏ trốn đến ngày 12/7/2021 ra đầu thú. Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân tỉnh Quảng Bình đã quy kết bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giết người” theo điểm đ, n khoản 1 Điều 123 BLHS với khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; án sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải theo điểm b, s khoản 1 và một số tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51; bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt bị cáo tù chung thân là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn T, HĐXX thấy rằng: Vợ chồng bị cáo có gửi cho bà T 430.706.000đ và nhờ bà chăm sóc nuôi dưỡng con trai của mình, nhưng sau đó bị cáo tự đòi lại nhiều lần với số tiền 304.000.000đ với mục đích chi tiêu cho cá nhân; vì đây là tài sản chung nên vợ bị cáo là chị Lê Thị L bảo mẹ mình không đưa thêm số tiền còn lại cho T, từ đó T có ý định giết chết mẹ vợ mình. Xét thấy, bị cáo có hành vi phạm tội rất côn đồ, vô cớ; bị cáo T là con rễ của bà T, nên án sơ thẩm áp dụng 02 tình tiết định khung tăng nặng là “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình ” và “ Có tính chất côn đồ” theo điểm đ, điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS; đồng thời áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ xử phạt bị cáo tù chung thân là thỏa đáng. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, những tình tiết giảm nhẹ bị cáo trình bày đã được tòa án cấp sơ thẩm xem xét áp dụng. Do vậy, HĐXX thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[4] Xét kháng cáo tăng nặng hình phạt của đại diện người bị hại-anh Lê Văn P; HĐXX thấy rằng: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng; có 03 tình tiết giảm nhẹ như án sơ thẩm nhận định; do vậy án sơ thẩm xử phạt tù chung thân là phù hợp. Việc người bị hại kháng cáo và luật sư bảo vệ quyền lợi cho người bị hại cho rằng: Bị cáo có các tình tiết tăng nặng chưa được áp dụng như: Giết người với động cơ đê hèn theo điểm đ khoản 1 điều 52; phạm tội một cách man rợ theo điểm i khoản 1 điều 123 và gây ra không khí căng thẳng, hoang mang trong dư luận, gây hao tổn công sức, tiền của, vật lực của các cán bộ điều tra theo điểm p khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ.
[5] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện người bị hại cho rằng: Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện bị hại yêu cầu số tiền chi phí thực tế mai táng phí cho bà T là 61.000.000đ và tiền tổn hại về tinh thần cho thân nhân người bị hại là 50.000.000đ, tổng cộng là 111.000.000đ; gia đình bị cáo đã bồi thường 61.000.000đ, còn lại 50.000.000đ , nay đại diện bị hại không cần thiết yêu cầu bị cáo bồi thường. HĐXX thấy rằng việc đại diện bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại sẽ được giải quyết ở giai đoạn thi hành án.
[6] Từ những nhận định trên đây, xét thấy nội dung các kháng cáo nêu trên của bị cáo và đại diện bị hại không có cơ sở xem xét chấp nhận; do vậy HĐXX không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị cáo, đại diện bị hại; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định; đại diện người bị hại và những người liên quan không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, đ khoản 1, 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T, đại diện người bị hại anh Lê Văn P; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân tỉnh Quảng Bình.
Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm đ, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52, Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam, ngày 12/7/2021.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo về bồi thường thiệt hại đối với yêu cầu của đại diện người bị hại anh Lê Văn P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị L, ông Hà Văn T, bà Hà Thị C.
Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm xét xử không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
2/ Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ; đại diện người bị hại anh Lê Văn P và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị L, ông Hà Văn T, bà Hà Thị C không phải chịu án phí.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (22/3/2022).
Bản án về tội giết người số 71/2022/HS-PT
Số hiệu: | 71/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về