Bản án về tội giết người số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH K

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 13 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H (Bô), sinh năm 2000, tại An Giang; Nơi cư trú: L, L, C, An Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Sơn A (1959) và bà (không rõ); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 02/5/2019, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh K xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc;

- Bản án số 268/2020/HSST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh K xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Quyết định thi hành án hình sự số 259/2020/QĐ-CA ngày 22/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh K);

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/8/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh K. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn H, Công ty Luật TNHH K - Đoàn Luật sư tỉnh K, địa chỉ: 44/23 Nguyễn Bỉnh Khiêm, N, K. Có mặt.

- Người bị hại: Huỳnh Thị Kim L, sinh năm 1979, địa chỉ: 04 đường T, P. P, N, K. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Cháu Đặng Huỳnh Bảo C, sinh năm 2012.

Đại diện theo pháp luật cho cháu C: Bà Huỳnh Thị Kim L (mẹ ruột), sinh năm 1979, địa chỉ: số 04 đường T, P. P, N, K. Vắng mặt.

2. Ông Trần Quốc H, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn Đ, xã V, N, K. Vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Sơn A, sinh năm 1959, địa chỉ: L, L, C, An Giang. Vắng mặt.

4. Ông Ngô Bá T, sinh năm 1987, địa chỉ: 221B đường H, H, V, N, K. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Huỳnh Thị Kim L và Nguyễn Thanh H là chị em họ. Chị L cho H ở nhờ tại nhà số 172/08 đường B, P.T, N, Khánh H. Do mâu thuẫn nên L không cho H ở và đuổi ra khỏi nhà.

Khoảng 12 giờ ngày 24/8/2020, H thuê xe taxi do Trần Quốc H1 điều khiển đi đến địa chỉ 172/08 đường B để tìm chị L. Đến đầu hẻm 172 đường B thì H nói H1 đợi trước hẻm, H đi bộ vào nhà. Lúc này trong nhà có chị L, cháu Đặng Huỳnh Bảo C (sinh năm 2012, là con ruột của chị L) và Nguyễn Sơn A (là cha ruột của H). Chị L ra mở cửa thì H chạy vào nhà bếp lấy 01 cây kéo bằng kim loại dài khoảng 25cm, cán nhựa màu đen xông đến định đâm chị L thì chị L bỏ chạy qua khách sạn ở gần nhà trốn. Do không đuổi kịp chị L nên khi thấy cháu C đang ngồi ở ghế salon thì H cất kéo vào sau lưng quần và dùng tay kéo cháu C lên xe taxi và nói H1 chở ra Bến xe phía Bắc thành phố N rồi chở về Bến xe phía Nam thành phố N. Trên đường đi do được H1 khuyên bảo nên H nói H1 quay lại nhà 172/08 đường B để H gặp chị L.

Đến khoảng 12 giờ 45 cùng ngày, H1 chở H và cháu C quay lại nhà số 172/08 đường B. Khi tới nơi thì H đưa cháu C xuống xe taxi và đi vào trong nhà.

Chị L thấy H thì bỏ chạy vào phòng trên tầng 01 rồi khóa cửa phòng. H thả cháu C và chạy lên lầu, dùng 01 ấm trà đập bể cửa kính, mở cửa vào phòng rồi cầm kéo bằng tay phải đâm nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, cổ, ngực của chị L. Chị L bỏ chạy, H cầm kéo đuổi theo thì bị Công an phường Tân Lập bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 269/TgT-TTPY ngày 26/8/2020 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh K kết luận tỷ lệ thương tích của Huỳnh Thị Kim L như sau: 01 vết thương có kích thước nhỏ vùng ngực;

02 vết thương có kích thước nhỏ dưới mi mắt trái; 01 vết thương có kích thước nhỏ vùng đuôi mắt trái; 01 vết thương có kích thước nhỏ vùng góc hàm trái; 01 vết thương có kích thước nhỏ vùng cổ phải; 01 vết thương có kích thước nhỏ vùng chẩm phải; 02 vết thương có kích thước nhỏ vùng vành tai trái; Thay đổi sắc tố da vùng mặt trái; Gãy xương chính mũi. Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể là 27%.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSKH-P1 ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh H và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H mức hình phạt từ 10 năm đến 11 năm tù về tội “Giết người”.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xét.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 quần vải màu trắng loại quần dài; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 cây kéo bằng kim loại dài 25cm, cán nhựa màu đen; 01 ấm trà không có nắp ấm trong tình trạng nứt vỡ;

mảnh sứ vỡ vì không còn giá trị sử dụng.

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý với nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo về hành vi và tội danh. Tuy nhiên, bị cáo rất ăn năn, hối cải về hành vi của mình, đã bồi thường cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 57 của Bộ luật hình sự xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Tại phiên tòa: Bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, người làm chứng vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an tỉnh K, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật sư, bị cáo, bị hại, người làm chứng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[3] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 12 giờ 45 phút, ngày 24/8/2020, tại nhà số 172/08 Bạch Đằng, Tân Lập, N, tỉnh K. Nguyễn Thanh H đã dùng 01 cái kéo bằng kim loại dài 25 cm đâm nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, cổ, ngực của Huỳnh Thị Kim L, gây thương tích cho chị L là 27%.

Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt, bị cáo đã dùng kéo là hung khí nguy hiểm đâm nhiều nhác vào cổ, mắt, hàm của bị hại, đây là là vùng trọng yếu trên cơ thể, bị cáo buộc phải biết hậu quả từ hành vi của mình có khả năng gây tử vong cho người bị hại, việc bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ. Do đó, Cáo trạng số 33/CT-VKSKH-P1 ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với hành vi Nguyễn Thanh H đưa cháu C lên xe taxi. Tòa án nhân dân tỉnh K đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra làm rõ vì có dấu hiệu của tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K cho rằng không cần thiết xem xét hành vi trên vì ở trên xe taxi Nguyễn Thanh H không có đe dọa, khống chế cháu C.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến thân thể của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương, thể hiện tính côn đồ hung hãn, coi thường pháp luật. Bị hại đã bỏ chạy vào phòng rồi khóa cửa phòng nhưng bị cáo đã đập cửa phòng xông vào cầm kéo bằng tay phải đâm nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, cổ, ngực của bị hại, bị hại tiếp tục bỏ chạy nhưng bị cáo vẫn tiếp tục cầm kéo đuổi theo bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện ý chí, mục đích của bị cáo là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Do đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo, xử phạt bị cáo nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho bị hại 5.000.000 đồng và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, tại thời điểm phạm tội chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tiền bồi thường 5.000.000 đồng và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không xét.

[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra có thu giữ: 01 quần vải màu trắng loại quần dài; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 cây kéo bằng kim loại dài 25cm, cán nhựa màu đen; 01 ấm trà không có nắp ấm trong tình trạng nứt vỡ; mảnh sứ vỡ. Xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; khoản 3 Điều 57; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 10 (Mười) năm tù về tội “Giết người”; Tổng hợp hình phạt 02 (Hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án sơ thẩm số 268/2020/HSST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố N, buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 12 (Mười hai) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/8/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 quần vải màu trắng loại quần dài; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 cây kéo bằng kim loại dài 25cm, cán nhựa màu đen; 01 ấm trà không có nắp ấm trong tình trạng nứt vỡ; mảnh sứ vỡ.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 4 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh K với Cục Thi hành án dân sự tỉnh K.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh H phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về