Bản án về tội giết người số 668/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 668/2023/HS-PT NGÀY 11/09/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh HD, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 822/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Văn T1 phạm tội “Giết người” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh HD.

Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Văn T1, sinh năm 1964 tại tỉnh HD; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn HH, xã CĐ, huyện CG, tỉnh HD; nghề nghiêp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tôc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giao: Không; quốc tic̣h: Viêt Nam; con ông Phạm Văn T2 và bà Lê Thị L; có vợ là Trần Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 16/5/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HD; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Trung K - Văn phòng luật sư A, Đoàn luật sư tỉnh HD; địa chỉ: Số 15A đường Hồng Quang, thành phố HD, tỉnh HD; có mặt.

Người bị hại không có kháng cáo, không bị kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án hình sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 24/02/2022, ông Đặng Văn T3 đi chơi ngang qua cổng nhà Phạm Văn T1, thấy nhà T1 mở cửa nên T3 đi vào. Tại đây ông T3 thấy có anh Đặng Văn H và anh Lương Trọng X đều ở thôn HH, xã CĐ, huyện CG và T1 đang ngồi tại bàn uống nước trong phòng khách và đang rủ nhau đánh bạc. Ông T3 nói cho đánh bạc cùng thì T1 không đồng ý, đuổi ông T3 về nên giữa T1 và ông T3 xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau. T1 đi ra ngoài hiên ngồi cạnh bàn uống nước để hút thuốc lào, thì ông T3 đi theo sau dùng tay phải bóp vào gáy T1 ấn xuống, T1 đứng dậy dùng chân phải đạp 01 phát vào bụng ông T3, ông T3 cầm ghế nhựa màu đỏ ở cạnh bàn uống nước vụt về phía T1 không trúng mà trúng vào bàn uống nước làm chiếc ghế bị gãy và vỡ 04 chén uống nước. T1 chạy vào phòng khách lấy trong ngăn kéo kệ để ti vi 01 con dao nhọn (dài 33cm, chuôi bằng nhựa màu đen dài 13cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 20cm, bản rộng 3,7cm), cầm dao tay phải chạy về phía ông T3 đang đứng ở khu vực hiên nhà, gần mép cổng, giơ lên hướng mũi dao về phía ông T3 và nói “Mày vào đây thì tao đâm mày chết”. Ông T3 cầm xô nhựa đựng điếu cầy ở cạnh bàn uống nước ném về phía T1, T1 đưa tay trái đỡ bị trúng vào tay (không bị thương tích). Lúc này, ông T3 đang đứng ở khu vực hiên nhà, gần mép cổng, thì T1 tiến đến gần đứng đối diện và cách khoảng 60cm, tay phải cầm dao, mũi dao hướng về phía trước, đâm liên tiếp 02 nhát theo hướng từ sau ra trước về phía bụng ông T3; trong đó đâm nhát thứ nhất thì ông T3 đưa tay trái đỡ bị trúng vào ngón giữa bàn tay trái của ông T3 làm rách da chảy máu, đâm nhát thứ hai trúng vào ngang đùi trái của ông T3 gây rách da chảy máu; ông T3 lùi lại ra phía ngoài đường gần giáp với mép cổng nhà T1, thì T1 tiến đến đứng đối diện với ông T3 đâm liên tiếp, 01 nhát vào bụng bên phải và 01 nhát vào bụng bên trái (gây vết thương thủng bụng bị lòi ruột ra ngoài) và đâm tiếp 01 nhát vào mông trái của ông T3 gây rách da chảy máu. Sau đó, T1 cầm dao về nhà và đến Công an xã CĐ, huyện CG trình báo và giao nộp con dao. Hậu quả: Ông Đặng Văn T3 bị thương, tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 66%.

Kết quả khám nghiệm hiện trường, xác định: Hiện trường vụ án là khu vực hiên giáp với cổng nhà ở của Phạm Văn T1 và khu vực đường thôn trước cổng vào nhà T1. Cổng nhà T1 giáp góc ngã ba đường thôn HH, phía trong cổng là khu vực hiên, kê sát góc hiên và tường giáp nhà bà Nguyễn Thị T là bàn sắt, xung quanh bàn là các ghế nhựa, có 02 chiếc ghế bị đổ, trong đó có 01 chiếc bị gãy vỡ chân. Từ bàn uống nước ra giữa cổng, giữa hiên nhà là vùng ấm pha trà bị đổ và các mảnh sứ của chén uống nước bị vỡ, bã chè, tóp thuốc lá rơi vãi rải rác, có 04 chiếc chén sứ bị vỡ. Từ trước cổng trên mặt đường thôn HH và trên trục đường thôn hướng ra QL 5 là vùng máu nhỏ giọt trên diện (17x1,5)m, cách mép cổng 0,70m và kết thúc tại vị trí mép ngõ đi vào nhà ông X1. Thu giữ: 01 ghế nhựa màu đỏ, chân ghế bị gãy một phần; 06 chiếc chén sứ màu trắng, trong đó có 04 chiếc chén bị vỡ, 01 xuyến bằng sứ không vỡ.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 89/TgT ngày 13/4/2022, T1 tâm pháp y Sở y tế HD xác định: Ông Đặng Văn T3 bị 02 vết thương gây thấu bụng, thủng ruột non nhiều lỗ, rách mạc treo đại tràng sigma, đứt động mạch thượng vị dưới bên phải, đã mổ xử lý cắt đoạn ruột non 15cm, khâu 2 lỗ thủng ruột non. Hiện để lại 06 sẹo vết thương, mổ, dẫn lưu kích thước T1 bình và nhỏ. 03 sẹo vết thương phần mềm vùng đùi trái, kích thước nhỏ. Các tổn thương trên có đặc điểm do vật sắc nhọn gây ra. Theo quy định Thông tư số 22 ngày 28/8/2019 Bộ y tế thì không có mục xác định tổn thương gây cố tật. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 65%. Tại Văn bản số 01/GĐBS ngày 13/01/2023, T1 tâm giám định pháp y Sở y tế HD xác định: Vết thương ngón III bàn tay trái của ông T3 tại thời điểm giám định để lại sẹo mặt bên đốt 1 ngón III bàn tay trái KT 2 x 0,1cm, mờ, mềm phẳng, không ảnh hưởng vận động, được xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 01%. Sẹo vết thương phần mềm vùng mặt sau 1/3 giữa đùi trái và các sẹo khác trên cơ thể ông T3 do thương tích gây ra ngày 24/02/2022 có cùng màu sắc, cùng độ tuổi nên hình thành cùng thời điểm là phù hợp. Ông Đặng Văn T3 bị tổn thương vào bụng gây thấu ổ bụng, chảy nhiều máu trong ổ bụng, thủng nhiều chỗ ruột non, rách mạc treo đại tràng sigma, đứt động mạch thượng vị dưới bên phải. Đây là tổn thương gây mất máu cấp, dịch trong ruột non gây viêm phúc mạc ổ bụng cấp. Vì vậy, nếu không được điều trị cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tới sốc do mất máu, viêm phúc mạc cấp và tử vong. Thực tế ông T3 được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh HD mổ cấp cứu, điều trị kịp thời nên giữ được tính mạng. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 66%.

Tại Kết luận giám định số 7368/KL-KTHS ngày 02/12/2022 về con dao bị can Phạm Văn T1 giao nộp, Viện khoa học hình sự Bộ Công an xác định: Trên con dao gửi giám định có dính dấu vết máu người, không phân tích được kiểu gen (ADN) do chất lượng dấu vết kém.

Tại Kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐĐG-TTHS ngày 16/8/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG kết luận: Tại thời điểm bị hại bị thiệt hại 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ đã qua sử dụng giá trị 17.000đ. 04 chiếc chém bằng sứ màu trắng đã qua sử dụng giá trị 16.000đ. Tổng giá trị thiệt hại là 33.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường.

Tại Cáo trạng số 28/CT-VKSHD-P2 ngày 25/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HD truy tố bị cáo Phạm Văn T1 tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 Tòa án nhân dân tỉnh HD đã quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 57, Điều 38 của Bô luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 590 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T1 phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/5/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/6/2023, bị cáo Phạm Văn T1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Phạm Văn T1 tiếp tục thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, ăn năn hối cải; bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn T1, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Văn T1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng; ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và luật sư; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo T1 đã khai nhận hành vi phạm tội; lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm; phù hợp lời khai của bị hại và những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 24/02/2022, tại nhà của Phạm Văn T1 ở thôn HH, xã CĐ, huyện CG, tỉnh HD; T1 và ông Đặng Văn T3 mâu thuẫn cãi chửi nhau từ việc T1 không đồng ý cho tham gia đánh bạc. Khi T1 đi ra ngoài hiên ngồi cạnh bàn uống nước để hút thuốc lào, thì ông T3 đi theo sau dùng tay phải bóp vào gáy T1 ấn xuống, T1 đứng dậy dùng chân phải đạp 01 phát vào bụng ông T3, ông T3 cầm ghế nhựa màu đỏ ở cạnh bàn uống nước vụt về phía T1 không trúng mà trúng vào bàn uống nước làm chiếc ghế bị gãy và vỡ 04 chén uống nước. T1 chạy vào phòng khách lấy trong ngăn kéo kệ để ti vi 01 con dao nhọn (dài 33cm, chuôi bằng nhựa màu đen dài 13cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 20cm, bản rộng 3,7cm), cầm dao tay phải chạy về phía ông T3 đang đứng ở khu vực hiên nhà, gần mép cổng, giơ lên hướng mũi dao về phía ông T3 và nói “Mày vào đây thì tao đâm mày chết”. Ông T3 cầm xô nhựa đựng điếu cầy ở cạnh bàn uống nước ném về phía T1, T1 đưa tay trái đỡ bị trúng vào tay (không bị thương tích). Lúc này, ông T3 đang đứng ở khu vực hiên nhà, gần mép cổng, thì T1 tiến đến gần đứng đối diện và cách khoảng 60cm, tay phải cầm dao, mũi dao hướng về phía trước, đâm liên tiếp 02 nhát theo hướng từ sau ra trước về phía bụng ông T3; trong đó đâm nhát thứ nhất thì ông T3 đưa tay trái đỡ bị trúng vào ngón giữa bàn tay trái của ông T3 làm rách da chảy máu, đâm nhát thứ hai trúng vào ngang đùi trái của ông T3 gây rách da chảy máu; ông T3 lùi lại ra phía ngoài đường gần giáp với mép cổng nhà T1, thì T1 tiến đến đứng đối diện với ông T3 đâm liên tiếp, 01 nhát vào bụng bên phải và 01 nhát vào bụng bên trái (gây vết thương thủng bụng bị lòi ruột ra ngoài) và đâm tiếp 01 nhát vào mông trái của ông T3 gây rách da chảy máu. Sau đó, T1 cầm dao về nhà và đến Công an xã CĐ, huyện CG trình báo và giao nộp con dao. Hậu quả: Ông Đặng Văn T3 bị thương, tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 66%.

[2] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội xâm phạm sức khỏe, tính mạng của ông T3. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi dùng dao kim loại sắc nhọn đâm vào vùng bụng của bị hại là vùng trọng yếu trên cơ thể có thể dẫn đến bị hại tử vong chỉ vì lý do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống. Bị cáo đứng đối diện đâm bị hại liên tiếp 05 nhát vào cơ thể bị hại (trong đó có 02 nhát vào vùng bụng), hành vi tấn công bị hại của bị cáo rất quyết liệt. Nếu ông T3 không được cấp cứu điều trị kịp thời sẽ dẫn đến sốc do mất máu, viêm phúc mạc cấp và tử vong; ông T3 không chết là do được mổ cấp cứu kịp thời. Toà án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo Phạm Văn T1 về tôi “Giết người” thuôc trường hợp có tính chất côn đồ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bô luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T1: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tôi bị cáo đã ra đầu thú; nguyên nhân xảy ra sự việc do một phần lỗi của bị hại. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bô luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo T1, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T1; sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh HD về hình phạt; cụ thể:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 57, Điều 38 của Bô luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/5/2022.

2. Án phí: Bị cáo Phạm Văn T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 668/2023/HS-PT

Số hiệu:668/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về