Bản án về tội giết người số 65/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 65/2020/HS-ST NGÀY 29/10/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 29 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Văn Q, sinh ngày 30/3/1991; nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H, sinh năm 1965 và bà Tô Thị L, sinh năm 1966; có vợ là Tô Thị D, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 07/11/2019, Trần Văn Q bị Công an huyện V phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi ném gạch vào nhà người khác. Ngày 26/11/2019, bị cáo đã nộp khoản tiền phạt trên.

Tiền sử: Ngày 02/5/2008, bị Công an huyện V phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi đánh nhau. Ngày 26/5/2008, bị cáo đã nộp khoản tiền phạt trên. Ngày 22/6/2018, bị Cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Sau khi khởi tố thì bị hại trong vụ án rút đơn đề nghị khởi tố bị can nên Cơ quan điều tra Công an thành phố C đã ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can đối với Trần Văn Q. Ngày 10/7/2018, Công an thành phố C đã ra quyết định xử phạt hành chính với số tiền 2.500.000 đồng đối với bị cáo về hành vi xâm hại sức khỏe người khác. Ngày 10/7/2008, bị cáo đã nộp khoản tiền phạt trên.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Văn Thị Th là Luật sư văn phòng Luật sư X, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

- Bị hại: Anh Chu Văn S, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn O, sinh năm 1969; nơi cư trú: Xóm N, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, v ng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 27/11/2019, anh Chu Văn S cùng với anh Chu Văn Đ, anh Chu Văn U, đều sinh năm 1988, trú tại xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc đi đến uống bia tại quán bia “K” ở xóm N, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc do ông Trần Văn O làm chủ quán. Cả ba người uống bia tại quán được một lúc thì anh U có việc bận nên về trước. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Trần Văn Q cùng với anh Ngô Quang G, sinh năm 1991, trú tại xã Đ, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc cũng đến uống bia. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, anh Chu Văn S không uống bia nữa và đi ra khu vực bàn uống nước tại quán ngồi chờ thanh toán thì gặp Trần Văn Q cũng đi ra đó uống nước. Tại đây giữa Q và S xảy ra mâu thuẫn, lời qua tiếng lại, chửi bới nhau. Q liền cầm 01 chiếc điếu cày bằng tre vỏ ngoài màu đen, dài khoảng 65cm, một đầu có đường kính 4,5cm, một đầu có đường kính 5cm, phần nõ điều bằng kim loại màu tr ng chỗ rộng nhất có kích thước 6cm (đặt cạnh bàn uống nước) vụt một phát trúng vùng đầu của anh S nhưng không gây rách da chảy máu. Thấy vậy, mọi người trong quán đều đến can ngăn nên Q, S đi về. Sau khi về nhà, do bực tức việc bị Q dùng điếu cày đánh tại quán bia nên anh S lấy điện thoại di động của mình gọi điện thoại cho Q và nói: “Mày ra ngay ngã 5 Ng tao bảo”. Nghe anh S nói như vậy, Q đồng ý và bảo S: “Mày chờ đấy”. Sau khi gọi điện thoại cho Q, S mang theo một đôi côn nhị khúc bằng gỗ, mỗi đoạn dài 15cm đi ra khu vực ngã 5 thuộc địa phận thôn R, xã Ng đợi Q. Do thấy S gọi điện thoại cho mình với giọng thách thức đánh nhau, nên Q đi xuống khu vực bếp của gia đình, lấy một con dao dài khoảng 40cm, bản dao bằng kim loại màu tr ng, chỗ rộng nhất khoảng 4,5cm, mũi dao vát nhọn, chuôi dao bằng nhựa màu đen, dạng dao phay. Sau đó Q một mình điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã 5 thuộc thôn R, xã Ng, huyện V để gặp S. Khi ra đến nơi thì thấy S đang cầm côn gỗ đứng chờ ở đó. Q d ng xe, đi bộ đến phía S, tay phải Q cầm dao giấu ở phía sau lưng. Khi Q đi đến đứng đối diện cách S khoảng 01m, Q vung dao lên chém về phía S một nhát theo hướng từ trên xuống dưới. S giơ tay trái lên đỡ thì bị chém trúng cổ tay, đồng thời lúc này S cũng vung côn lên vụt về phía Q, Q giơ tay trái lên đỡ thì bị S vụt trúng tay. Q tiếp tục vung dao lên chém liên tiếp 03 nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đầu của S. Bị chém vào tay và đầu, S lao đến ôm Q làm cả hai người đều bị ngã ra đường, con dao trên tay Q văng ra. Khi cả hai người đang vật lộn với nhau thì có một số người đi đường đến can ngăn, S vùng dậy bỏ chạy và vứt lại chiếc côn gỗ đang cầm trên tay, Q nhặt lấy chiếc côn và tiếp tục đuổi đánh S. S chạy được khoảng 50m tới quán ăn “Y” của gia đình anh Nguyễn Văn J, sinh năm 1995 ở thôn R, xã Ng, huyện V thì S chạy vào trong quán nhờ mọi người giúp đỡ. Lúc này, Q đuổi đến nơi, thấy S ở bên trong quán nên đứng bên ngoài, khi được mọi người can ngăn thì Q bỏ về nhà. Sau khi sự việc xảy ra, anh S được người dân và gia đình đưa đến Trạm y tế xã Đ cấp cứu sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc để cấp cứu và điều trị, đến ngày 11/12/2019 thì ra viện.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V đã tiến hành khám nghiệm hiện trường lúc 19 giờ 25 phút ngày 27/11/2019, tại đường liên xã thuộc địa phận thôn R, xã Ng, huyện V, hiện trường không còn nguyên vẹn.

Hiện trường chung: Đoạn đường liên xã nơi xảy ra vụ việc có chiều rộng 27m, mặt đường được trải nhựa áp phan, bề mặt tương đối bằng phẳng. Nằm bên trái đường theo hướng từ xã Đ đi đường quốc lộ 2A là lề đường, chiều rộng 2m, tiếp đến là cửa hàng vật liệu xây dựng. Nằm bên phải đường theo hướng nêu trên là nhà ông Trần Quốc A1 và nhà ông A2.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, chọn cột điện đôi làm mốc chuẩn. Vị trí cột điện đôi này nằm ở bên phải đường theo hướng từ  Xã Đ đi đường quốc lộ 2A và cách mép đường bên trái đường liên xã theo hướng nêu trên là 1,9m.

Hiện trường cụ thể: Kiểm tra tại mặt đường nơi xảy ra vụ việc phát hiện có đám vết màu nâu đỏ (nghi là máu) đã khô nằm trên diện 2,8 x 3,2m, ký hiệu vị trí (1) trên sơ đồ hiện trường. Tâm vị trí (1) cách mép đường bên trái theo chiều từ  Xã Đ đi đường quốc lộ 2A là 12,4m. Tâm (1) cách cột điện đôi làm mốc là 25,2m. Tại vị trí (1) mô tả trên còn phát hiện 01 đôi dép nhựa, loại dép tổ ong màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng, dưới đế 02 chiếc dép có in cỡ số “L”, ngoài ra chưa phát hiện gì khác.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu, niêm phong mẫu chất màu nâu đỏ (nghi là máu), thu và niêm phong 01 đôi dép nhựa, loại dép tổ ong màu vàng đã cũ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V đã tiến hành khám nghiệm hiện trường lúc 14 giờ ngày 02/12/2019, tại quán bia K, hiện trường không còn nguyên vẹn.

Hiện trường chung: Quán bia K, địa chỉ thuộc thôn Nội, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Đông B c khuôn viên quán bia tiếp giáp với nhà ông bà Mai Hiển, phía Tây B c tiếp giáp với đường liên xã T - Xã Đ, phía Tây Nam tiếp giáp với nhà ông T3, phía Đông Nam tiếp giáp với cánh đồng.

Trong khuôn viên quán xây dựng một ngôi nhà cấp bốn, mặt chính của ngôi nhà nhìn về hướng Tây B c, tiếp giáp nhà về hướng Đông B c là nhà vệ sinh, sân bê tông, ngoài ra trong quán còn có khu nhà bếp, khu lán, phía sau lán là sân gạch và khu trồng cây.

Hiện trường cụ thể: Sân bê tông trong quán bia “K” có chiều rộng 6,8m, dài nhất 7m, bề mặt tương đối bằng phẳng, tại khu vực sân này trồng một số loại cây có kích thước đặc điểm khác nhau. Tại góc sân phía ngoài bên phải giáp với ngôi nhà cấp bốn để một bộ bàn ghế uống nước, bộ bàn ghế này gồm 01 chiếc bàn, 02 chiếc ghế bằng đá, ngoài ra trên sân còn có một số đồ dùng sinh hoạt khác. Tại sân bê tông khu lán, sân gạch phía sau lán để những chiếc bàn bằng đá, kim loại, có kích thước khác nhau, xung quanh bàn để những chiếc ghế nhựa có màu s c khác nhau. Tiến hành kiểm tra sân bê tông, khu lán, sân gạch phía sau lán không phát hiện dấu vết gì.

Kết quả xác minh thương tích của Chu Văn S tại Trạm y tế xã Đ, huyện V lúc 20 giờ 40 phút ngày 27/11/2019 xác định: “Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 27/11/2019, Trạm y tế xã Đ có tiếp nhận bệnh nhân Chu Văn S, sinh năm 1988, trú tại xã T, huyện V, tình trạng tỉnh; có 03 vết thương ở vùng đầu, trán, mỗi vết thương ~ 07cm; 01 vết thương ở cổ tay trái ~ 05cm. Các vết thương trên đang chảy máu. Trạm y tế sơ cứu, băng bó vết thương và chuyển bệnh nhân lên tuyến trên điều trị”.

Tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc lúc 20 giờ 40 phút ngày 27/11/2019 xác định: “Bệnh nhân Chu Văn S vào viện khoảng 19 giờ 39 phút ngày 27/11/2019. Vùng trán đỉnh trái có vết thương kích thước ~ 06cm; tại vùng trán đỉnh có vết thương kích thước ~ 08cm; tại vùng thái dương đỉnh trái có vết thương kích thước ~ 06cm; tại vùng cổ tay trái có vết thương kích thước ~ 04cm. Tất cả các vết thương trên đều rách da chảy máu. Kết quả chụp ST scanner: Hình ảnh dập não tụ máu vùng giữa thúy trán hai bên, có nhiều khí nội sọ, đường gãy phức tạp xương trán”. Tại Bệnh án số 50778 ngày 11/12/2019 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc xác định: “Bệnh nhân Chu Văn S vào viện 19 giờ 39 phút ngày 27/11/2019, ra viện ngày 11/12/2019. Bệnh nhân có các vết thương: Vết thương vùng trán đỉnh trái kích thước ~ 06cm; vết thương vùng trán đỉnh có kích thước ~ 08cm; vết thương vùng thái dương đỉnh trái có kích thước ~ 06cm; vết thương vùng cổ tay trái có kích thước ~ 04cm. Chuẩn đoán khi vào viện: Vết thương sọ não hở, vết thương cẳng tay trái”.

Kết quả giám định thương tích: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với anh Chu Văn S kết luận tỉ lệ tổn thương cơ thể xếp 36%. Cơ chế hình thành vết thương của anh Chu Văn S do vật s c gây nên anh Chu Văn S đã từ  chối không giám định thương tích bổ sung để xác định các ảnh hưởng về chức năng, thẩm mỹ Kết quả thực nghiệm điều tra: Ngày 05/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V đã tổ chức thực nghiệm điều tra trong đó cho Trần Văn Q diễn lại toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai của Q tại cơ quan điều tra, kết quả thấy rằng hành vi phạm tội của Q phù hợp với lời khai của bị can và phù hợp với thương tích của anh S.

Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V đã thu giữ: Thu giữ khi khám nghiệm hiện trường tại ngã 5 thôn R, xã Ng, huyện V 01 mẫu chất màu nâu đỏ; 01 đôi dép. Ngày 27/11/2019, anh Nguyễn Văn J, sinh năm 1995, trú quán: xã Chấn Hưng, huyện V (là chủ quán Y) giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện V 01 chiếc áo dài tay màu xám, anh Công cho biết chiếc áo trên là của người thành niên bị chém chạy vào nhà anh và bỏ lại chiếc áo trên. Ngày 28/11/2019, ông Trần Văn O sinh năm 1969, trú quán tại thôn Nội, xã T, huyện V (là chủ quán bia K) giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện V 01 chiếc điếu cày có chiều dài là 65cm, đường kính 4,5cm, ông O cho biết chiếc điếu cày trên buổi chiều ngày 27/11/2019, anh Q trú quán xã Đ đã dùng đánh vào đầu anh S trú quán xã T. Ngày 28/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V tiến hành rà soát và thu giữ trước cửa hàng gốm sứ Phú Tình thuộc thôn R, xã Ng 01 đôi côn nhị khúc bằng gỗ dài 15cm, đường kính một đầu là 2,5cm, một đầu 03cm. Sau khi thu giữ, Cơ quan Cảnh sát điều tra - công an huyện V cho anh S xem lại đôi côn trên, anh S công nhận đó chính là đôi côn mà anh S mang đi để đánh nhau với Q ngày 27/11/2019. Đối với con dao mà bị cáo Q dùng chém anh S ngày 27/11/2019. Sau khi chém anh S thì Q và S lao vào ôm nhau, con dao văng ra vị trí nào Q không biết. Cơ quan điều tra Công an huyện V đã tiến hành truy tìm con dao này nhưng không thu giữ được. Theo lời khai của bị cáo Q tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V thì con dao mà Q cầm chém S có đặc điểm: Là loại dao gọt hoa quả, có chuôi màu đen, lưỡi dao màu tr ng, ngoài ra Q không nhớ đặc điểm gì khác. Đến nay Q khai lại về con dao mà Q cầm chém S có đặc điểm: Là loại dao dạng phay, chuôi băng nhựa màu đen dài khoảng 11cm, lưỡi dao bằng kim loại màu tr ng dài khoảng hơn 30cm, bản dao chỗ rộng nhất khoảng 04 đến 05cm. Q khẳng định con dao dạng dao phay này mới là con dao có đặc điểm tương đối giống con dao Q đã cầm để chém anh S, sở dĩ Q nhớ được chính xác là vì: Ngày 06/7/2020, Q đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành cho Q nhận dạng lại về con dao là hung khí Q dùng để chém anh S. Sau khi nhận dạng Q nhận thấy con dao được nhận dạng có đặc điểm phù hợp với con dao Q dùng đẻ chém anh S; nguyên nhân trước đó Q khai dao này là dao gọt hoa quả là vì: Cơ quan Cảnh sát điều tra - công an huyện V và Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã phối hợp tiến hành cho Q nhận dạng con dao mà Q đã cầm để chém S thì Q đã chỉ ra đúng loại dao có hình thức giống với con dao mà Q chém S, tuy nhiên phần lưỡi dao của con dao nhận dạng ng n hơn phần lưỡi dao của con dao Q dùng để chém anh S. Chu Văn S là người bị hại cũng khai rằng con dao mà Q chém S là loại dao dạng phay còn các đặc điểm khác thì S không nhìn thấy được do trời tối. Do đó, có cơ sở để khẳng định rằng con dao mà Q cầm chém S có đặc điểm: Là loại dao dạng phay, có chuôi bằng nhựa màu đen dài khoảng 11cm, lưỡi dao bằng kim loại màu tr ng dài khoảng 30cm, bản dao chỗ rộng nhất khoảng 04 đến 05cm.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc, gia đình bị cáo Trần Văn Q đã bồi thường các chi phí điều trị, tổn hại sức khỏe cho anh Chu Văn S tổng số tiền là 30.000.000 đồng. Anh Chu Văn S đã nhận số tiền trên và không yêu cầu, đề nghị bị cáo Trần Văn Q phải bồi thường khoản chi phí nào khác. Quá trình điều tra, anh Chu Văn S có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho Trần Văn Q.

Tại cáo trạng số: 56/CT-VKS-P1, ngày 07 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Trần Văn Q về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc luận tội đối với bị cáo Trần Văn Q giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Giết người”. Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Trần Văn Q  08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) năm tù về tội “Giết người”.

Trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Trần Văn Q đã tự nguyện bồi thường tiền viện phí, tổn hại sức khỏe cho bị hại tổng số tiền là 30.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì khác.

Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu màu nâu đỏ và 01 đôi dép; 01 chiếc áo do anh Nguyễn Văn J giao nộp, 01 chiếc điếu cày do anh ông Trần Văn O do không còn giá trị sử dụng. Tịch thu tiêu hủy 01 đôi côn nhị khúc do là hung khí đánh nhau.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn Q đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức thấp nhất vì trong vụ này bị hại có lỗi là đã có thái độ thách thức và chủ động hẹn gặp bị cáo. Bị cáo không kìm chế được bản thân nên bột phát phạm tội. Sau khi phạm tội bị cáo đã rất ăn năn hối cải và nhờ gia đình bồi thường cho bị hại. Bị hại đã nhận khoản bồi thường đồng thời cũng có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị hại cũng xác nhận có một phần lỗi trong vụ án này, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn Q đã th a nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, các kết luận giám định của cơ quan chuyên môn… và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. T đó có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 27/11/2019, tại quán bia “K” ở xóm N, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, anh Chu Văn S và Trần Văn Q xảy ra mâu thuẫn, chửi bới nhau. Q đã cầm 01 chiếc điếu cày bằng tre ở quán vụt một phát trúng vùng đầu của anh S nhưng không gây ra thương tích gì, được mọi người can ngăn nên Q, S đi về nhà. Sau khi về nhà, do bực tức việc bị Q dùng điếu cày đánh mình nên anh S đã gọi điện thoại hẹn Q ra ngã 5 Ng để tiếp tục đánh nhau. Sau đó anh S mang theo một đôi côn nhị khúc bằng gỗ, còn Q đem theo 01 con dao phay dài khoảng 50cm, bản dao bằng kim loại màu tr ng, chỗ rộng nhất khoảng 4,5cm đi khu vực ngã 5 thuộc địa phận thôn R, xã Ng, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc để đánh nhau. Khi Q ra đến điểm hẹn thì đã thấy S đang đứng chờ. Q đi bộ đến phía S, khi còn cách S khoảng 01m thì Q vung dao lên chém S 01 nhát theo hướng từ  trên xuống dưới. S giơ tay trái lên đỡ thì bị dao chém trúng cổ tay, đồng thời lúc này S cũng vung côn lên vụt về phía Q, Q giơ tay trái lên đỡ thì bị S vụt trúng tay. Q tiếp tục vung dao lên chém liên tiếp 03 nhát theo hướng t trên xuống dưới trúng vào vùng đầu của S. Sau đó Q, S vật lộn với nhau thì có một số người can ngăn. S vùng dậy bỏ chạy vào bên trong quán ăn “Y” cách đó khoảng 50m. Q đuổi đến nơi, thấy S ở bên trong quán nên đứng bên ngoài, khi được mọi người can ngăn thì Q bỏ về nhà. Sau đó, S được mọi người đưa đi bệnh viện cấp cứu, điều trị. Kết luận giám định thương tật xác định anh Chu Văn S bị tổn hại sức khỏe 36%.

Xuất phát từ  mâu thuẫn khi gặp nhau tại quán bia “K” mà Trần Văn Q đã cầm dao phay là hung khí nguy hiểm chém nhiều nhát vào đầu S là nơi hiểm yếu trên cơ thể đã làm S bị thương tích 36% sức khỏe thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác. Hành vi của Trần Văn Q là cố ý tước đoạt tính mạng của người khác đã thỏa mãn yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Anh Chu Văn S là bị hại cũng có lỗi trong việc đã thách thức Q đánh nhau, đã chủ động gọi điện thoại cho Q để hẹn đánh nhau, sau đó S cầm theo côn gỗ là hung khí nguy hiểm đến điểm hẹn trước để chờ Q đến đánh nhau. Chính vì vậy, hành vi phạm tội Giết người của Q theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự, nội dung điều luật quy định:

“2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Q là rất nghiêm trọng xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; hành vi đó xảy ra tại khu dân cư làm mất an ninh trật tự, gây tâm lý hoang mang lo l ng cho nhân dân, vì vậy cần xử phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ng a chung, phục vụ tốt việc giữ vững an ninh chính trị tại địa phương. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cân nh c xem xét đến tính chất cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét đến nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của bị cáo thấy rằng:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này xuất phát từ  sự thách thức của bị hại, dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi đã thực hiện, bị cáo đã nhờ gia đình sang xin lỗi và tự nguyện bồi thường cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc hộ nghèo, bố bị ung thư phổi, mẹ bị ung thư dạ dày. Bị cáo hiện đang nuôi hai con còn nhỏ. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Hậu quả việc chết người chưa xảy ra nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Sau khi cân nh c, xem xét các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ thực hiện tội phạm, hậu quả xảy ra cũng như nhân thân và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù với mức án phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, phạt bị cáo từ  08 năm 06 tháng đến 09 năm tù là có phần nghiêm kh c vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và bị hại cũng có lỗi, bị cáo giết người chưa đạt nên chỉ phải chịu không quá ¾ mức hình phạt tù mà điều luật quy định (t 07 năm đến 15 năm).

[4] Về quan điểm của bị hại, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Trần Văn Q đã nhờ gia đình bồi thường bằng tiền của bị cáo cho anh S 30.000.000 đồng. Anh S đã nhận đủ và tại phiên tòa, anh S không yêu cầu bị cáo Trần Văn Q phải bồi thường gì thêm nên cần xác nhận sự tự nguyện thỏa thuận này.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu màu nâu đỏ và 01 đôi dép thu giữ khi khám nghiệm hiện trường; 01 chiếc áo do anh Nguyễn Văn J giao nộp, 01 chiếc điếu cày do anh ông Trần Văn O do không còn giá trị sử dụng. Tịch thu tiêu hủy 01 đôi côn nhị khúc do là hung khí sử dụng khi đánh nhau.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15;

Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ  ngày bắt tạm giam 30/11/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Các Điều 584; Điều 585 và Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015: Xác nhận bị cáo Trần Văn Q đã bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho anh Chu Văn S tổng số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu màu nâu đỏ, 01 đôi dép, 01 chiếc áo, 01 chiếc điếu cày và 01 đôi côn nhị khúc.

(Vật chứng tịch thu tiêu hủy có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Công an tỉnh Vĩnh Phúc với Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ  ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan v ng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 65/2020/HS-ST

Số hiệu:65/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về