TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 04 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2021/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
DA ME KA D - Sinh năm 1993 tại N Nơi cư trú: Thôn S, xã C, thành phố C, tỉnh K.
Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Cơ Ho; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Ka Tơr Ya L – Sinh năm: 1960 và bà: M – Sinh năm: 1961 Vợ: Cao Thị Kim H – Sinh năm: 1990; có 2 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/5/2021, có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án:
Luật sư Nguyễn Thị Minh T (Văn phòng luật sư T), là luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa. Luật sư có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:
Bà Cao Thị Kim H - Sinh năm: 1990 Trú tại: Thôn S, xã C, thành phố C, tỉnh K. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Ka Tơr Ya L - Sinh năm: 1960 Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện N, tỉnh N. Có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1. Ông Mang T - Sinh năm: 1974 Địa chỉ: Thôn S, C, thành phố C, tỉnh K. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Bà Cao Thị Kim D - Sinh năm: 1977 Địa chỉ: Thôn S, C, thành phố C, tỉnh K. Vắng mặt tại phiên tòa.
3. Ông Nguyễn Thành Tr - Sinh năm: 1998 Địa chỉ: Thôn S, C, thành phố C, tỉnh K. Vắng mặt tại phiên tòa.
4. Cháu Cao Thị Kim H - Sinh năm: 2007 Địa chỉ: Thôn S, thành phố C, tỉnh K.
Người đại diện theo pháp luật của cháu H: Bà Cao Thị Kim H Địa chỉ: Thôn S, thành phố C, tỉnh K. Cháu H vắng mặt, bà H có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 15/10/2020, vợ chồng Da Me Ka D và Cao Thị Kim H mâu thuẫn, kình cãi nhau tại thôn S, C, K. Sau khi cãi nhau, D bực tức đi xuống bếp lấy 1 con dao Thái Lan cán vàng, mũi nhọn, đi vào phòng ngủ dùng tay lật ngửa người H rồi cầm dao đâm một nhát vào vùng bụng trái của H. H la lên, vùng chạy ra cửa sau, rút con dao còn găm trong bụng vứt ra sân và gục ngã. Sau đó, H được người thân đưa đến Bệnh viện đa khoa khu vực C, Bệnh viện đa khoa tỉnh K cấp cứu, điều trị. Ngày 16/10/2020, D đến Công an xã C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Đến ngày 11/12/2020, H xuất viện.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 16/TgT-TTPY ngày 12/01/2021 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế Khánh Hòa kết luận thương tích của Cao Thị Kim H:
Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vùng bụng đường giữa trên dưới rốn có 1 vết sẹo kích thước trung bình (sẹo phẫu thuật), tỷ lệ thương tật 2%.
- Vùng bụng trái có 1 vết sẹo kích thước nhỏ (sẹo vết đâm), tỷ lệ thương tật 01%.
- Vùng hạ vị bên trái và bên phải có 3 sẹo dẫn lưu kích thước nhỏ (sẹo dẫn lưu), tỷ lệ thương tật: 3%.
- Thủng dạ dày 2 lỗ, tỷ lệ thương tật: 28%.
Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của Cao Thị Kim H là 32%.
Vật chứng: 01 con dao cán màu vàng (dao Thái Lan), dài 21 cm, mũi nhọn.
Bản cáo trạng số 58/CT-VKSKH-P1 ngày 28/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Da Me Ka D về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Da Me Ka D. Sau khi phân tích các tình tiết về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết về nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 15; Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 6 năm đến 8 năm tù giam. Về trách nhiệm dân sự, bị hại Cao Thị Kim H xác định đã được bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xét. Về vật chứng, xét thấy con dao bị thu giữ không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy theo quy định.
Bào chữa cho bị cáo Da Me Ka D, luật sư Nguyễn Thị Minh T đồng ý với tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tích cực vận động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có trình độ nhận thức hạn chế, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo Da Me Ka D xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cam Ranh, Công an tỉnh Khánh Hòa, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ những người làm chứng là ông Mang T, bà Cao Thị Kim D, ông Nguyễn Thành T, cháu Cao Thị Kim H nhưng tất cả những người làm chứng nói trên đều vắng mặt tại phiên tòa, đồng thời người làm chứng Mang T và Nguyễn Thành T có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng nói trên.
[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên toà, bị cáo Da Me Ka D khai nhận: vào đêm 15/10/2020, do nhớ lại những lần cãi vã thời gian trước đó trong nuôi dạy con cái và quan hệ với họ hàng nên giữa Da Me Ka D và bà H có xảy ra mâu thuẫn. Đến 21 giờ cùng ngày, khi bị cáo đang mở điện thoại ngoài sân nhà thì H gọi bị cáo tắt điện thoại để đi ngủ nên bị cáo bực tức, đi ra sau nhà lấy một con dao Thái Lan và sử dụng dao đâm một nhát vào vùng bụng của H, gây thủng nhiều lỗ trên dạ dày của bị hại, gây tỷ lệ thương tật 32%. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt, không đáng kể trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà bị cáo đã có hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào cơ thể của người bị hại. Hành vi của bị cáo Da Me Ka D sử dụng hung khí tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại với ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra đã dẫn đến khả năng có thể gây nên cái chết cho bị hại. Sau khi đâm bị hại Cao Thị Kim H, bị cáo đã bịt miệng, ghì chặt tay không cho chị H kêu cứu, chỉ đến khi chị H cắn mạnh vào tay của bị cáo mới có thể thoát thân chạy ra ngoài sân. Hành vi của bị cáo thể hiện cao độ tính chất coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ vật chứng là một cây dao cán màu vàng, mũi nhọn, dài 21cm, là hung khí do bị cáo khai nhận được sử dụng để đâm chị H. Vật chứng được thu giữ, đối chiếu qua lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với bản kết luận giám định pháp y về thương tích của người bị hại. Do đó, có cơ sở để kết luận rằng, bản cáo trạng số: 58/CT-VKSKH-P1 ngày 28 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Da Me Ka D về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 với tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Xét thấy: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của người khác là khách thể đặc biệt được pháp luật ưu tiên bảo vệ, vì vậy cần phải xét xử mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”, hậu quả chết người chưa xảy ra, nên Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng quy định tại Điều 15, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Da Me Ka D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của người bị hại; là người dân tộc thiểu số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đồng thời tại phiên tòa, người bị hại Cao Thị Kim H có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, người bị hại Cao Thị Kim H xác nhận đã được gia đình bị cáo bồi thường đủ số tiền 20.000.000 đồng; người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông KaTơr Ya L không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Xét thấy 01 con dao cán màu vàng (dao Thái Lan), dài 21 cm, mũi nhọn là công cụ, phương tiện phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Da Me Ka D là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Da Me Ka D phạm tội: “Giết người” (chưa đạt).
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo DA ME KA D 9 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/5/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại – bà Cao Thị Kim H đã được bồi thường thiệt hại, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông KaTơr Ya L không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao cán màu vàng (dao Thái Lan), dài 21 cm, mũi nhọn.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa)
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Bị cáo Da Me Ka D được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Da Me Ka D, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm
Bản án về tội giết người số 61/2021/HSST
Số hiệu: | 61/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về