Bản án về tội giết người số 585/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 585/2023/HS-PT NGÀY 11/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với Điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 586/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Trần Anh V về tội “Giết người”.

Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2023/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Anh V; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1988 tại huyện Q, tỉnh Quảng Bình; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Giáo viên; Đoàn thể: Đảng viên Đảng viên Đ1 (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 76-QĐ/UBKTHU ngày 26/4/2023 của Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Q); con ông Trần Minh L và bà Đàm Thị T; Vợ Lê Thị T1 và 02 người con (lớn sinh năm 2022, nhỏ sinh năm 2023); tiền án Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 13/4/2023 cho đến nay; có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Dương Mênh M, Văn phòng L1, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình; địa chỉ: TDP C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng từ trước, khoảng 22 giờ 10 phút ngày 12/4/2023, sau khi đi uống rượu về T V sử dụng điện thoại di động OPPO A95 nhắn tin qua zalo với vợ là Lê Thị T1 với nội dung: “bay chuẩn bị mang áo tang nha; tao xuống nhà mày chết” và gọi điện không nhận được trả lời từ vợ. V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius BKS 73E1-X mang theo sang nhà bố vợ là ông Lê Văn T2 (sinh năm 1960, trú tại thôn T, xã Q, huyện Q) do vợ con đã bỏ về ở đó để giải quyết mâu thuẫn. Khi đến nhà ông T2 đã tắt điện nhưng không đóng cửa. V đến bên giường của ông T2 và vợ là bà Phạm Thị N, V dùng tay vỗ vai gọi ông T2 dậy để nói chuyện. Ông T2 ngồi bật dậy, đưa tay trái lên chỉ về phía V và nói: “đồ mất nết, loại trẻ con” và đuổi V về, V cầm dao bằng tay phải đâm một nhát trúng vào hõm nách trái của ông T2 rồi rút dao ra máu chảy theo dao ướt lòng bàn tay phải của V. Ông T2 kêu lên một tiếng “Ôi”. Lúc này, bà N vùng dậy bật điện thấy V cầm dao đã đâm ông T2 nên bỏ chạy ra sân hô hoán “T3 ơi, chạy đi” rồi qua nhà con dâu là Nguyễn Thị Thanh T4 ở gần đó kêu cứu. Chị T3 ở nhà trong đi ra nhìn thấy V cầm dao đứng gần giường bố mẹ thì quay vào ôm con nhỏ chạy trốn ra vườn. V điều khiển xe mô tô cầm theo con dao gây án đến Công an xã Q đầu thú. Hậu quả: Ông Lê Văn T2 chết tại hiện trường.

- Tại bản kết luận giám định tử thi số: 46/KLGĐTT ngày 25/4/2023 của Trung tâm giám định Y khoa Pháp y tỉnh Quảng Bình kết luận nguyên nhân chết của ông Lê Văn T2 là do: Suy hô hấp và suy tuần hoàn máu cấp; Vết thương dưới hõm nách trái 07cm rách da, cơ, sâu thấu ngực phòi mô phổi qua vết thương; khoang màng phổi hai bên có nhiều máu cục và máu đông; xuyên thùy trên phổi trái; rách màng ngoài tim, khoang màng tim có nhiều máu cục và máu không đông; đứt động mạch phổi hai bên, đứt bán phần cứng động mạch chủ, đứt bán phần khí quản; rách mặt trong thùy trên phổi phải. Thương tích trên do vật sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.

- Kết quả trưng cầu giám định ADN trên con dao do bị can Trần Anh V đầu thú và giao nộp vào ngày 12/4/2023. Tại bản kết luận giám định số 74/KL ngày 21/4/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Trên con dao có máu của nạn nhân Lê Văn T2, có ADN của Trần Anh V. (BL: 86-98, 109).

- Kết quả trưng cầu giám định phương tiện: Cơ quan điều tra trưng cầu giám định số khung số máy của xe mô tô BKS: 73E1 - X do Trần Anh V sử dụng làm phương tiện gây án. Tại bản kết luận giám định số: 404/KL ngày 03/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: Xe mô tô gửi giám định nhãn hiệu YAMAHA, số loại: SIRIUS RC, biển kiểm soát: 73E1 - X, số khung hiện tại:RLCS5C640CY879326, số máy hiện tại: 5C64-879334 là số khung, số máy nguyên thủy. Đăng ký mang tên của bị can Trần Anh V.

- Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 điện thoại di động OPPO A95, số IMEL 1: 869929053920, IMEL 2: 869929053998282 của bị can Trần Anh V và hình ảnh từ 01 camera giám sát lắp đặt tại trên đường liên xã Q. Cơ quan điều tra đã trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình trích xuất dữ liệu nội dung các tin nhắn của Trần Anh V và vợ là Lê Thị T1 có liên quan lưu trữ trong điện thoại di động của bị can Trần Anh V; Trích xuất hình ảnh về người điều khiển xe mô tô BKS 73E1-X trong các tập tin video trích xuất từ camera giám sát và Biên bản làm việc trích xuất dữ liệu điện tử, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh đã tiến hành trích xuất hình ảnh và yêu cầu bị can V và vợ là Lê Thị T1 giải thích các tin nhắn liên quan, có sự tham gia của người chứng kiến, luật sư bào chữa. Sau khi bị can đầu thú, đã kiểm tra nồng độ cồn và ma túy đối với Trần Anh V, kết quả: Nồng độ cồn: 0.667mg/L; Âm tính với chất ma túy.

Vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình đã tạm giữ:

- 01 (một) con dao, cán dao làm bằng gỗ dài khoảng 13cm; lưỡi dao làm bằng kim loại, một cạnh sắc, đầu nhọn, nơi rộng nhất 6cm, chiều dài lưỡi dao 25cm, dao đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, tên máy OPPO A95, số IMEL 1: 869929053920, IMEL 2: 869929053998282, điện thoại đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu YAMAHA, số loại: SIRIUS RC, biển kiểm soát: 73E1 - X, số khung:RLCS5C640CY879326, số máy:5C64-879334, màu sơn: trắng - đen.

- 03 (ba) tập tin video được trích xuất từ camera giám sát được lữu trữ trong một USB màu đen nhãn hiệu Transcend, dung lượng 4Gb.

Hiện các vật chứng nêu trên đang được tạm giữ, bảo quản tại Kho vật chứng thuộc Công an tỉnh Quảng Bình.

- 15.000.000đồng (mười lăm triệu đồng) là tiền của ông Trần Minh L nộp phục vụ bồi thường thiệt hại. Hiện đang tạm giữ trong tài khoản tạm giữ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình.(BL: 242,243).

- 01(một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 010098 do Công an huyện Q cấp ngày 01/10/2012, tên chủ xe: Trần Anh V(Đăng ký xe mô tô BKS: 73E1 – X, nhãn hiệu YAMAHA, Số loại: SIRIUS, Số máy: 879334, số khung: 879326). (Tạm giữ theo hồ sơ vụ án). (BL268).

Về dân sự: Quá trình giải quyết vụ án gia đình bị hại (bà Phạm Thị N) yêu cầu Trần Anh V bồi thường 194 triệu đồng tiền mai táng và tổn thất tinh thần do hành vi phạm tội gây ra, trong đó chi phí cho mai táng là 49.000.000 đồng và 145.000.000 tổn thất do tính mạng bị xâm phạm. Gia đình bị can V tự nguyện giao nộp 15.000.000 đồng cho Cơ quan điều tra phục vụ bồi thường dân sự, hiện đang tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Bình chờ xử lý theo vụ án.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

Căn cứ điểm đ, n khoản 1 Điều 123; Điều 46; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, 585, 586, Điều 591 Bộ luật dân sự; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Anh V phạm tội “Giết người".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Anh V 18 năm tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (13/4/2023).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 04/10/2023, bị cáo Trần Anh V có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Anh V có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số:

60/2023/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã xét xử bị cáo Trần Anh V về tội “Giết người” theo điểm đ, n khoản 1 Điều 123 BLHS và xử phạt bị cáo mức án 18 năm tù là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Anh V thừa nhận: Do có mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, bị cáo đã có hành vi dùng 01 con dao dài 38cm, cán gỗ, lưỡi dao bằng kim loại màu đen có mũi nhọn đâm một nhát trúng vào hõm nách trái của ông T2 (là bố vợ của bị cáo). Hậu quả ông Lê Văn T2 chết tại hiện trường. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội Giết người” theo điểm đ, n khoản 1 điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Trần Anh V thì thấy: Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, khi giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong gia đình phải có thái độ ứng xử đúng mực nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, có hành vi hung hãn dùng hung khí tước đoạt mạng sống của bố đẻ vợ. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tài liệu chứng cứ mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt nên HĐXX không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Anh V, giữ nguyên án sơ thẩm.

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Anh V phạm tội “Giết người”.

- Căn cứ điểm đ, n khoản 1 Điều 123; Điều 46; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Anh V mức án 18 năm tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (13/4/2023).

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Anh V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 585/2023/HS-PT

Số hiệu:585/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về