Bản án về tội giết người số 585/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 585/2022/HS-PT NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 425/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Lê Nhật M do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

- Bị cáo bị kháng cáo, kháng nghị:

Lê Nhật M, sinh ngày 22/02/1996 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Ấp S, xã S1, huyện C, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông Lê Văn C, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1971; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/11/2021, đến ngày 12/11/2021 chuyển sang tạm giam.

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu: Luật sư Nguyễn Văn T thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Minh P (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1958;

2/Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1962;

3/Bà Kim Tiên Trúc M1, sinh năm 1991 (có mặt);

Cùng nơi cư trú: Ấp N, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Ông Nguyễn Văn V, Bà Nguyễn Thị N1 cùng ủy quyền cho Kim Tiên Trúc M1 tham gia tố tụng trong vụ án (có mặt).

(Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 09/11/2021, Lê Nhật M cùng một số người đến nhà của anh Trang Sĩ Duy T2, sinh năm 1980, tại ấp S, xã S1, huyện C, tỉnh Bến Tre chơi, trong đó có anh Nguyễn Minh P, sinh năm 1989, nơi cư trú: Ấp S, xã S1, huyện C, tỉnh Bến Tre. Đến khoảng 13 giờ, M có mua 08 tờ vé số của bà Lý Thanh P1 và trả 200.000 đồng nhưng bà P1 cho rằng M chưa trả tiền, kêu M trả tiền vé số. Lúc này, anh P cũng đang mua vé số và được bà P1 trả lại 90.000 đồng, M nói đã đưa bà P1 200.000 đồng, bà P1 vẫn nói M chưa trả tiền. Thấy vậy, M trả 100.000 đồng, bà P1 trả lại M 20.000 đồng. Cả hai mua vé số xong, M hỏi anh P có trả tiền vé số chưa, giữa M và anh P xảy ra cự cãi, anh P dùng tay đánh vào đầu M nhưng được mọi người can ngăn. Sau đó, M nói với anh P “Tao và mày là anh em chơi chung mà mày đánh tao, muốn gì ra đây”, M đi bộ ra trước, anh P đi theo hướng ra ngoài lộ liên ấp, khoảng 10 mét thì anh P đuổi kịp M, hai bên giằng co, anh P dùng tay đánh vào người, mặt của M, M lấy con dao xếp mang theo sẵn để trong túi quần, bật lưỡi dao ra, dùng tay phải cầm dao đâm vào ngực anh P 01 nhát, M định chạy ra lộ nhưng bị anh P nắm áo, M tiếp tục dùng dao đâm 01 nhát nữa vào ngực của anh P, rồi M chạy ra lộ. Khi ra đến lộ, M nghe la lớn trong nhà anh T2, M để dao vào túi quần đi trở vào, đến trước cổng thấy anh P đang nằm, trên người có dính máu, M đi vòng ra sau nhà anh T2 lấy xe mô tô biển số 65P6-3628 của M cùng anh Nguyễn Thanh Q đưa anh P đi cấp cứu, khi đến Trung tâm y tế huyện C anh P đã tử vong. Sau đó, M đi ra phía sau Trung tâm y tế ném con dao gây án qua vườn dừa của người dân, rồi M đến Công an huyện C đầu thú.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 185/TT ngày 18/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Nạn nhân Nguyễn Minh P chết do suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp hậu quả của hai vết thương vùng ngực.

Tại bản án hình sự sơ thẩm 19/2022/HS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2022 Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Nhật M phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Nhật M 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09 tháng 11 năm 2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm,

- Ngày 06/6/2022 bà Kim Tiên Trúc M1 (đại diện hợp pháp cho người bị hại) có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

- Ngày 07/6/2022 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre có Quyết định số 02/QĐ-VKSBT-P1 kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm n, Khoản 1, Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tăng hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Nhật M khai nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xét xử. Bị cáo không đồng ý nội dung kháng cáo, quyết định kháng nghị, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đại diện hợp pháp của người bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo từ 16 – 18 năm tù, số tiền cấp dưỡng cho 02 con của bị hại là 2.000.000 đồng/tháng/cháu, và được nhận 1 lần trong thời hạn 03 tháng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần quyết định kháng nghị về việc áp dụng điểm n, Khoản 1, Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo, giữ nguyên phần nội dung kháng nghị về việc tăng hình phạt đối với bị cáo.

Trong phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án:

- Về tố tụng: Kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại và quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre trong hạn nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Bản án sơ thẩm xử bị cáo theo Khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, nên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần quyết định kháng nghị về việc đề nghị xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về hình phạt thì mức án 9 năm là chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nên yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo là có cở sở chấp nhận. Đối với kháng cáo về mức cấp dưỡng của đại diện bị hại thì quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần quyết định kháng nghị mà Viện kiểm sát đã rút, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo và kháng nghị về việc tăng hình phạt đối với bị cáo, xử phạt bị cáo mức án từ 12-13 năm tù,.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu: Luật sư đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần cấp dưỡng. Về hình phạt đối với bị cáo, thì khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét rất đầy đủ tình tiết nội dung vụ án, vụ việc xảy ra cũng có lỗi của bị hại, bị cáo không nghĩ đến hậu quả có thể chết người. Mức án sơ thẩm xử là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình giải quyết phúc thẩm, gia đình bị cáo có bồi thường khắc phục thêm 40.000.000 đồng, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã rút một phần nội dung Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKSBT-P1 ngày 07/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre về việc áp dụng điểm n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét hành vi của bị cáo. Xét thấy, nội dung quyết định kháng nghị đã rút không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác. Do vậy, căn cứ Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử một phần nội dung Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKSBT-P1 ngày 07/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre về việc áp dụng điểm n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo.

[2] Vào khoảng 13 giờ ngày 09/11/2021, tại ấp S, xã S1, huyện C, tỉnh Bến Tre, giữa Lê Nhật M và anh Nguyễn Minh P cự cãi về việc mua vé số M bị P đánh được mọi người can ngăn. Sau đó M và P ra ngoài cổng nhà anh T2, P dùng tay đánh M, M dùng con dao mang theo sẵn trong túi quần đâm vào vùng đường nách giữa bên trái và vùng ngực phải của anh P, dẫn đến anh P chết trên đường đi cấp cứu.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Lê Nhật M phạm tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3] Nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

[3.1] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã tước đi mạng sống của người khác trái pháp luật, gây đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân không gì bù đắp được, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo cần thiết phải xử phạt mức hình phạt thật nghiêm khắc để đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, để xử phạt bị cáo mức án 09 năm tù.

Hội đồng xét xử xét thấy, bị hại có hành động tấn công bị cáo trước từ trong nhà và ngoài cổng nhà anh Duy T2, khi bị tấn công bị cáo bị chao đảo và bị tấn công tiếp nên bị cáo rút dao ra tấn công lại bị hại. Do bị hại cũng có lỗi, là nguyên nhân gây ra vụ việc nên Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo phạm tội theo Khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Tuy nhiên, bị hại chỉ dùng tay tấn công bị cáo, trong khi đó bị cáo dùng dao tấn công vào vùng trọng yếu trên người bị hại, sau khi đâm 01 nhát vào ngực anh P, bị anh P nắm áo bị cáo tiếp tục đâm 01 nhát thứ hai vào ngực bị hại. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận thường xuyên mang theo dao trong người để phòng thân khi có mối đe dọa, nguy hiểm xảy ra. Điều này thể hiện thái độ xem thường pháp luật, sẵn sàng giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực của bị cáo. Do vậy, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo và chưa đủ nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo. Nội dung kháng cáo và quyết định kháng nghị về việc đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Đối với nội dung kháng cáo về phần tiền cấp dưỡng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bà M1 (đại diện hợp pháp của bị hại) yêu cầu bị cáo cấp dưỡng cho 02 con của bị hại, với số tiền 2.000.000 đồng/tháng/cháu, yêu cầu được nhận 01 lần trong thời hạn 03 tháng, nhưng bị cáo không đồng ý. Do các bên không thỏa thuận được, và phần quyết định của bản án sơ thẩm về nội dung này là đúng quy định pháp luật, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ đế chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà M1.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại về phần tiền cấp dưỡng; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại và quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre về việc tăng hình phạt đối với bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị [6] Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 2 Điều 342, điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

I/Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần Quyết định kháng nghị số 02/QĐ- VKSBT-P1 ngày 07/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre về việc đề nghị áp dụng điểm n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi xem xét hành vi của bị cáo Lê Nhật M;

II/Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Kim Tiên Trúc M1 (đại diện hợp pháp của bị hại) và phần nội dung Quyết định kháng nghị số 02/QĐ- VKSBT-P1 ngày 07/6/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre về việc tăng hình phạt đối với bị cáo;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Kim Tiên Trúc M1 (đại diện hợp pháp của bị hại) về phần tiền cấp dưỡng.

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Nhật M phạm tội: “Giết người”.

2. Áp dụng: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Lê Nhật M 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 09/11/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Lê Nhật M bồi thường tiếp phần còn lại cho đại diện hợp pháp của bị hại là 179.000.000 (Một trăm bảy mươi chín triệu) đồng.

Về cấp dưỡng: Lê Nhật M có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con của bị hại là Nguyễn Bảo Đăng, sinh ngày 04/01/2014 và Nguyễn Bảo Anh, sinh ngày 14/8/2018 mỗi người, mỗi tháng 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng đến khi đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng được thực hiện theo từng tháng tính từ ngày 09 tháng 11 năm 2021.

Số tiền nêu trên do chị Kim Tiến Trúc M1 nhận thay.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền chưa được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

III/Bị cáo Lê Nhật M và bà Kim Tiên Trúc M1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 585/2022/HS-PT

Số hiệu:585/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về