Bản án về tội giết người số 543/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 543/2023/HS-PT NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu Trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và tại điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 534/2023/TLPT- HS ngày 27 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Trần Xuân H về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

Bị cáo bị kháng cáo, bị kháng nghị Trần Xuân H, sinh ngày 06 tháng 3 năm 1993 tại Bình Định; nơi cư trú: tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông và lái xe; trình độ học vấn:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân T, sinh năm 1968 và bà: Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1969; vợ: Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1997, có 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 03/8/2022. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Xuân H: Ông Nguyễn Thế V - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Định. Có mặt

- Bị hại:

1. Anh Ngô Quang L, sinh ngày: 02/9/2006; nơi cư trú: Thôn T 1, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định.

2. Anh Võ Phan Hoài B, sinh ngày 18/10/2007 (chết).

3. Anh Nguyễn Quốc V, sinh ngày 02/7/2005 (chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Quang L: Bà Lê Thị T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn T 1, xã A, huyện H, Bình Định. Có mặt

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Phan Hoài B: Ông Võ Văn H, sinh năm 1973 (có mặt); bà Phan Thị H, sinh năm 1969; nơi cư trú: thị trấn Tăng Bạt Hổ, huyện H, tỉnh Bình Định. Có mặt

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Võ Văn H: Bà Trương Thị P, Luật sư Văn phòng Luật sư Trương Thị P, Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Quốc V: Ông Nguyễn Mộng T, sinh năm 1981; bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1985; nơi cư trú: huyện H, tỉnh Bình Định. Có mặt

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị D: Luật sư Bùi Văn P thuộc Công ty luật P, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn A 2, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định. Vắng mặt

2. Chị Trần Thùy T, sinh năm 2003; nơi cư trú: Thôn A 2, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định. Vắng mặt

3. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn Đ, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xuất phát từ việc Trần Thùy T (sinh năm 2003, ở thôn A 2, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định) đăng lên Facebook để đòi nợ Võ Phan Hoài B (sinh ngày 18/10/2007, ở huyện H, tỉnh Bình Định) số tiền 900.000 đồng. Nên vào khoảng 13h00’ ngày 03/8/2022, Võ Phan Hoài B rủ Nguyễn Quốc V (sinh ngày 02/7/2005, ở thôn Đ, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định) và Ngô Quang L (sinh ngày 02/9/ 2006, ở thôn Thế Thịnh 1, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định) mang theo 02 con dao tự chế đến nhà của bà Trần Thị L (sinh năm 1960, ở thôn A 2, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định, là bà ngoại của T) để tìm Trần Thùy T (đang sinh sống tại nhà bà L). Khi đến cổng nhà bà L, V và B đi bộ vào, còn L đứng ngoài cổng. Tại đây, B la chửi T với lý do T đăng thông tin lên tài khoản mạng xã hội Facebook đòi nợ B. Thấy vậy, Trần Thị Mỹ L gọi điện thoại cho chồng là Trần Xuân H nói: “Có ba đứa nhỏ đến nhà tìm con T”. Lúc này, H đang điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA-CERATO biển kiểm soát 77A-X đi trên đường thuộc thị trấn Tăng Bạt Hổ, huyện H, tỉnh Bình Định, nghe L gọi điện thoại nói nên H điều khiển xe ô tô đi về nhà bà L. Khoảng 10 phút sau, B và V đi ra chỗ L đứng và B nói đi về. Lúc này, V lái xe mô tô biển kiểm soát 77K1-X chở B ngồi giữa cầm 01 con dao tự chế, L ngồi sau cùng cầm 01 con dao và di chuyển theo hướng về nghĩa địa Gò Mít. Khi xe V, B và L đi đến ngã tư đường bê tông cách nhà bà Trần Thị L khoảng 70m thì suýt va chạm với xe ô tô do Trần Xuân H điều khiển. Lúc này, B cầm con dao chỉ thẳng về xe ô tô của H vì thấy xe của H chạy ẩu. Trần Xuân H xác định đây đúng là 03 người vừa đến nhà mẹ vợ để tìm T như Trần Thị Mỹ L gọi điện thoại báo cho H trước đó, nên H rồ ga, đánh lái, điều khiển xe đi theo hướng của V, B và L. Khi biết xe ô tô của Trần Xuân H đang đi theo sau thì V tăng tốc, còn B thì cầm dao tiếp tục chỉ về phía xe của H. Thấy vậy, Trần Xuân H tăng ga và tông mạnh vào phía sau xe mô tô của V, B và L đang di chuyển, làm V, B, L ngã ra khỏi xe mô tô, va đập và trượt trên nền đường bê tông. Xe mô tô trượt khoảng 21m, B trượt khoảng 25m. Sau khi thấy xe mô tô của V, B và L bị ngã thì H điều khiển xe ô tô đến Công an xã A, huyện H trình báo rồi lái xe ô tô quay lại bỏ xe tại hiện trường.

Hậu quả: Võ Phan Hoài B chết tại chỗ, Nguyễn Quốc V chết trên đường đi cấp cứu, Ngô Quang L bị thư ng nhẹ; xe mô tô biển kiểm soát 77K1-X bị hư hỏng nặng.

Tại các bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 283/2022/PY-TT và số 284/2022/PY-TT cùng ngày 14/11/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận: Võ Phan Hoài B chết do sốc đa chấn thư ng; Nguyễn Quốc V chết do suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp, đa chấn thư ng, gãy đa xư ng lồng ngực gây tràn máu, tràn khí phổi và đa chấn thư ng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 05/01/2023 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự tỉnh Bình Định kết luận: Xe mô tô mang biển số: 77K1- X, nhãn hiệu YAMAHA (đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Thị D – mẹ ruột của Nguyễn Quốc V) tại thời điểm tháng 8/2022 có giá trị là 18.300.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định tư pháp ngày 04/4/2023 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Bình Định kết luận: Xe ô tô biển kiểm soát 77A-X tại thời điểm kiểm tra hệ thống phanh, lái hoạt động bình thường (không phát hiện thấy sự bất thường về kỹ thuật).

* Về trách nhiệm dân sự:

- Gia đình của bị hại Nguyễn Quốc V có đơn yêu cầu bồi thường chi phí mai táng, bồi thường xe mô tô 77K1-X và các chi phí khác với tổng số tiền là 1.298.000.000 đồng (Một tỷ hai trăm chín mười tám triệu đồng). Đến nay, gia đình Trần Xuân H đã khắc phục cho gia đình bị hại Nguyễn Quốc V số tiền 70.000.000 đồng.

- Gia đình của bị hại Võ Phan Hoài B có đơn yêu cầu bồi thường chi phí mai táng và các chi phí khác với tổng số tiền là 715.000.000 đồng (Bảy trăm mười lăm triệu đồng). Đến nay, gia đình Trần Xuân H đã khắc phục cho gia đình Võ Phan Quốc B số tiền 50.000.000 đồng.

- Riêng Ngô Quang L từ chối giám định thư ng tích và cũng không yêu cầu gia đình Trần Xuân H bồi thường dân sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HSCTNST ngày 15/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

Căn cứ vào các điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Căn cứ vào Điều 106; Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589, Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015;

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Trần Xuân H từ 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 03/8/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc bị cáo Trần Xuân H có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho ông Võ Văn H và bà Phan Thị H là người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Phan Hoài B số tiền là 323.000.000 đồng (Ba trăm hai mươi ba triệu đồng). Gia đình bị cáo Trần Xuân H đã bồi thường 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), nên bị cáo Trần Xuân H còn phải bồi thường 273.000.000 đồng (Hai trăm bảy mươi ba triệu đồng).

- Buộc bị cáo Trần Xuân H có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Mộng T và bà Nguyễn Thị D là người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Quốc V số tiền là 344.200.000 đồng (Ba trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm nghìn đồng). Gia đình bị cáo Trần Xuân H đã bồi thường 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng), nên bị cáo Trần Xuân H còn phải bồi thường 274.200.000 đồng (Ba trăm bảy mươi bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.” Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/9/2023, ông Võ Văn H đại diện hợp pháp của bị hại Võ Phan Hoài B có đơn kháng cáo với nội dung tăng mức hình phạt đối với bị cáo lên mức án tử hình.

Ngày 15/9/2023, bà Nguyễn Thị D đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Quốc V có đơn kháng cáo với nội dung tăng mức hình phạt đối với bị cáo lên mức án tử hình và xem xét mức bồi thường.

Ngày 18/9/2023, bị hại anh Ngô Quang L có đơn kháng cáo với nội dung tăng mức hình phạt đối với bị cáo lên mức án tử hình và xem xét bồi thường cho mình.

Ngày 28/9/2023 Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh Bình Định ban hành Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-P2 đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm tăng mức hình phạt đối với bị cáo Trần Xuân H từ 20 năm tù lên tù chung thân.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-P2.

Luật sư Nguyễn Thế V- thuộc Công ty Luật TNHH MTV N, Đoàn luật sư tỉnh Bình Định bào chữa cho bị cáo, có ý kiến: nhóm bị hại cũng có lỗi, đã cầm dao đến nhà bà L la chửi; bị cáo có nhân thân tốt; bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tại phiên tòa phúc thẩm đã tự nguyện tăng mức bồi thường cho gia đình bị hại; sau khi phạm tội đã tự nguyện đến c quan công an khai báo; bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm Luật sư Bùi Văn Ph -thuộc Công ty Luật P, Đoàn luật sư tỉnh Bình Định bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Thị D, có ý kiến: Bà D kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường và tăng hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bà D rút yêu cầu kháng cáo về bồi thường nên tôi không có ý kiến. Về hình phạt: bị cáo bị truy tố với 04 tình tiết định khung hình phạt và chỉ có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên mức hình phạt 20 năm tù là quá nhẹ.

Luật sư Trương Thị P-thuộc Văn phòng Luật sư Trương Thị P, Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai bảo vệ quyền lợi cho ông Võ Văn H, có ý kiến: bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết định khung, sau khi bị cáo phạm tội nhưng gia đình bị cáo không đến thăm hỏi gia đình bị hại. Vì vậy, mức hình phạt 20 năm tù là quá nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt, xử bị cáo với mức hình phạt cao nhất là tử hình.

Đại diện VKS cấp cao tại Đà Nẵng có ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng hình sự. Tòa án cấp s xét xử bị cáo Trần Xuân H về tội “Giết người” theo điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng pháp luật. Bị cáo bị truy tố về tội giết người với 04 tình tiết định khung, trong khi đó bị cáo chỉ được áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên mức hình phạt 20 năm tù là nhẹ, không tư ng xứng tính chất hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định và một phần kháng cáo của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại tăng hình phạt đối với bị cáo. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc tăng mức bồi thường cho 02 gia đình bị hại thêm mỗi gia đình 100.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và trên c sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo, luật sư.

[1] Theo bản án hình sự sơ thẩm và tài liệu có trong hồ s vụ án, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai người làm chứng, bị hại; bản kết luận giám định, tang vật thu giữ, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có đủ c sở xác định: Vào khoảng 13 giờ ngày 03/8/2022, chỉ vì Phan Võ Hoài B, Nguyễn Quốc V và Ngô Quang L cầm theo dao đến nhà bà Trần Thị L để la chửi Trần Thùy T, khi được chị Trần Thị Mỹ L gọi điện thoại nói “Có ba đứa nhỏ đến nhà tìm con T” thì bị cáo Trần Xuân H đã ngay lập tức điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA-CERATO đi về nhà bà L. Khi cách nhà bà L khoảng 70m, bị cáo gặp V điều khiển xe mô tô chở B, L, biết đây là nhóm người vừa đến nhà bà L chửi bới, Trần Xuân H đã điều khiển xe ô tô quay lại rồi tăng ga tông mạnh vào phía sau xe mô tô, làm B, V và L ngã, va đập và trượt trên nền đường bê tông. Hậu quả Võ Phan Hoài B (lúc này mới 14 tuổi 09 tháng 15 ngày), Nguyễn Quốc V chết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo Trần Xuân H cũng không có kháng cáo.

[2] Tính chất hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì nghe chị Trần Thị Mỹ L (vợ của bị cáo) gọi điện thoại nói “Có ba đứa nhỏ đến nhà tìm con T”, bị cáo không làm rõ lý do việc các bị hại đến nhà bà Trần Thị L la chửi mà ngay lập tức lái xe ô tô đến nhà bà L, thì gặp các bị hại (cách nhà bà L 70m, thời điểm này các bị hại đang quay về), mặc dù nhóm bị hại đã tăng ga xe mô tô để bỏ chạy, nhưng bị cáo vẫn dùng xe ô tô để đâm vào phía sau xe mô tô, mục đích là giết cả anh B, V và L, anh L chỉ bị thư ng nhẹ không chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của Trần Xuân H. Do đó, cần xử bị cáo với mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo cũng như ngăn ngừa loại tội phạm này tại địa phương. Bị cáo bị truy tố với 04 tình tiết định khung hình phạt là “Giết 02 người trở lên”, “Giết người dưới 16 tuổi”, “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” và “Có tính chất côn đồ” và hậu quả gây ra là vô cùng lớn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo Trần Xuân H mức hình phạt 20 năm tù là nhẹ, không tư ng xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định và một phần kháng cáo của người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Xuân H.

Bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã chủ động đến Công an xã A, huyện H để trình báo, quá trình điều tra, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động để gia đình bồi thường cho gia đình bị hại Võ Phan Hoài B 50.000.000 đồng, bồi thường cho gia đình bị hại Nguyễn Quốc V 70.000.000 đồng, bị hại cũng có hành vi đến nhà bà L để la chửi chị T. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng tự nguyện bồi thường thêm cho mỗi gia đình bị hại Võ Phan Hoài B, gia đình bị hại Nguyễn Quốc V số tiền 100.000.000 đồng. Do đó, không có c sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại xử bị cáo Trần Xuân H với mức án “tử hình”.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo tăng mức bồi thường:

Trong quá trình điều tra, truy tố anh Ngô Quang L không có yêu cầu bồi thường dân sự và Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh L. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét yêu cầu kháng cáo được bồi thường dân sự của anh Ngô Quang L. Anh L có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu bị cáo Trần Xuân H bồi thường bằng vụ kiện dân sự khác.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị D đồng ý với sự tự nguyện tăng bồi thường của bị cáo nên rút yêu cầu kháng cáo. Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo tăng mức bồi thường dân sự của bà Nguyễn Thị D.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo tăng thêm mức bồi thường dân sự cho gia đình bị hại Võ Phan Hoài B, gia đình bị hại Nguyễn Quốc V, mỗi gia đình thêm 100.000.000 đồng.

[4] Về án phí phúc thẩm: bị cáo Trần Xuân H không có kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn H, bà Nguyễn Thị D, Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-P2 ngày 28/9/2923 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HSCTN-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về phần hình phạt.

Áp dụng các điểm a, b, l, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Xử phạt bị cáo Trần Xuân H Tù chung thân về tội “Giết người”, Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 03/8/2022.

Căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị D về phần yêu cầu tăng mức bồi thường dân sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589, Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015;

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Trần Xuân H đồng ý tăng thêm mức bồi thường dân sự cho gia đình bị hại, cụ thể:

- Buộc bị cáo Trần Xuân H có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho ông Võ Văn H và bà Phan Thị H là người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Phan Hoài B số tiền là 423.000.000 đồng (bốn trăm hai mười ba triệu đồng). Gia đình bị cáo Trần Xuân H đã bồi thường 50.000.000 đồng (Năm mười triệu đồng), nên bị cáo Trần Xuân H còn phải bồi thường 373.000.000 đồng (ba trăm bảy mười ba triệu đồng).

- Buộc bị cáo Trần Xuân H có nghĩa vụ bồi thường các khoản thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Mộng T và bà Nguyễn Thị D là người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Quốc V số tiền là 444.200.000 đồng (bốn trăm bốn mười bốn triệu hai trăm nghìn đồng). Gia đình bị cáo Trần Xuân H đã bồi thường 70.000.000 đồng (Bảy mười triệu đồng), nên bị cáo Trần Xuân H còn phải bồi thường 374.200.000 đồng (Ba trăm bảy mươi bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp c quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự tư ng ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

4. Về án phí: Bị cáo Trần Xuân H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị như: xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 543/2023/HS-PT

Số hiệu:543/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về