TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 531/2023/HS-PT NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 09 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 512/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Lê Công Tr và các bị cáo khác. Do có kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 267/2022/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo bị kháng nghị:
1/. Lê Công Tr; Sinh năm 2000, tại tỉnh Đồng Tháp; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Đường H, phường H1, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ văn hóa: 2/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Lê Văn L và bà Phạm Thị O; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 14/7/2019. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Tr: Luật sư Nguyễn Trần Th1 – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
2/. Huỳnh Ngọc T; Sinh năm 1999, tại tỉnh Kiên Giang; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp V, xã P, huyện V1, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: tổ 41, KP4, phường H1, Quận 12, Thành phố Thành Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Ngọc T1 và bà Lê Thị Ph; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 15/7/2019. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Dương Quang M – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
3/. Phan Tấn L; Sinh năm 1998, tại tỉnh An Giang; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp A, thị trấn A1, huyện A1, tỉnh An Giang; Chỗ ở: ấp 6, xã Th, thị xã B, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Phan Văn Nh và bà Phan Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 14/7/2019. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo L: Luật sư Phạm Hiền Tr – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
4/. Bùi Văn Tr1; sinh năm 1995 tại tỉnh Bình Định; Giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V2, xã H, huyện H1, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: thợ sơn; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Bùi Văn M và bà Đinh Thị S; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 15/7/2019. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Tr1: Luật sư Lương Văn Đ – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
5/. Nguyễn Tùng Ch; Sinh năm 1997, tạị tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A2, thị trấn A1, huyện A1, tỉnh An Giang; Giới tính: Nam; Chỗ ở: 159A Đường H, phường H1, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu T và bà Trần Thị Th; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 15/7/2019. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Ch: Luật sư Nguyễn Thị Xuân M – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
6/. Trần Quốc D; Giới tính: Nam; Sinh ngày 26/10/2002 tại tỉnh Bạc Liêu (đến ngày thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo 16 tuổi 08 tháng 17 ngày); nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 38, xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở: Đường H, phường H1, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Trần Ngọc H và bà Nguyễn Thị Hồng Th; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 30/11/2020. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo D: Luật sư Vũ Thanh H – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
- Bị cáo có kháng cáo:
7/. Nguyễn Ngọc S; Giới tính: Nam; sinh năm 2000, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; chỗ ở: đường số 8, phường L, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc Ch và bà Trần Thị D; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự:
Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
8/. Võ Công Th; Sinh năm 1999, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 4 Thôn T, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Võ Văn D và bà Lê Thị N; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
9/. Võ Ngọc D1; Sinh năm 1988, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 4, Thôn T, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: Đường T, phường T1, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Võ Văn D và bà Lê Thị N; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
10/. Võ Thanh Tr2; Sinh năm 2000, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 7 thôn T3, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: Đường T4, tổ 9, Khu phố 7, phường T5, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông: Không rõ và bà Võ Thị L; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
11/. Trần Ngọc T1; Sinh năm 2000, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 7 thôn T3, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Đường T4, phường T5, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Minh Ng và bà Phạm Thị Mỹ M; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
12/. Phạm Minh S1; Sinh năm 1989, tại tỉnh Bình Định; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 7, Thôn T3, xã T1, huyện T2, tỉnh Bình Định; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Phạm L và bà Trần Thị L, sinh năm 1963; Vợ: Bùi Thị Mỹ Ch, sinh năm 1992; Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
- Bị hại: Anh Nguyễn Văn S2, sinh năm 1999 (đã chết);
Đại diện người bị hại:
1/. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1962. (vắng mặt)
2/. Bà Võ Thị Th, sinh năm 1971. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Bình Định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/. Trần Đăng Kh (có mặt) Địa chỉ: Đại lộ N, H, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
2/. Đỗ Văn Th1 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 6, xã V, huyện V1, tỉnh Hậu Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00, ngày 13/7/2019, tại quán N (địa chỉ đường H, Khu phố 3, phường H1, Quận 12) có 02 nhóm uống bia, ngồi gần bàn với nhau. Nhóm thứ nhất gồm Nguyễn Ngọc S, Trần Đăng Kh, T, M và L1 (không rõ lai lịch, bạn làm chung công ty với S). Nhóm thứ hai gồm Trần Thị Yến Nh (chị họ của S), Lê Công Tr (bạn trai của Nh), Trần Quốc D, H, L2 Nhỏ, H1, Ph (không rõ lai lịch).
Sau đó, S và D gặp nhau khi cùng đi vệ sinh, D hỏi S “Mày tên gì?”, S trả lời “S”, D chọc “sáng sao, sao sáng”. Khi quay lại bàn, S nhắn tin qua Facebook cho Nh hỏi tên của D và cho rằng D muốn gây sự, nên S gọi Võ Ngọc D1 và Võ Công Th đến để đánh nhau. Nh khuyên S “Nhậu vô bớt kiếm chuyện”. Tr thấy Nh nhắn tin, nên lấy điện thoại của Nh xem. Phát hiện, S nhắn tin đòi đánh nhau với nhóm của Tr. Vì vậy, Tr nhắn tin cho Huỳnh Ngọc T đến, để đánh nhau với nhóm của S. T gọi điện thoại rủ Bùi Văn Tr1, Nguyễn Tùng Ch và Phan Tấn L đến quán để đánh nhau.
Tại quán N, Tr chỉ cho T, Văn Tr1, Ch và L biết S là người đã gây sự với Tr. T, Ch và Văn Tr1 yêu cầu S đi ra ngoài quán nói chuyện. S đang đi ra cửa thì Văn Tr1 cầm 01 vỏ chai bia bằng thủy tinh (hiệu Tiger) trên bàn đánh trúng đầu S; T cầm vỏ chai bia đánh S nhưng Ch can ngăn và giật lấy vỏ chai bia trên tay của T. T dùng tay, chân đánh S, do mọi người can ngăn, nên cả hai nhóm đi về. Lúc này, Đỗ Văn Th1 (ở chung nhà trọ với Văn Tr1 và T ở gần đó) đi ra thấy đánh nhau, Th1 đến can ngăn, nói T và Văn Tr1 đi về.
Trên đường về, Tr rủ Ch, T, D, H, L, Văn Tr1 và Th1 đến quán ốc H (tổ 33, Khu phố 3, phường H1, Quận 12) uống bia tiếp, nhưng Th1 không đi mà quay về nhà trọ. Ch gọi điện thoại rủ Dương Văn E đến uống bia cùng. Sau đó, Nguyễn Hoàng Kh1, B, Thành Tr2 (chưa rõ lai lịch, bạn của Văn Tr1 và Tr) chạy xe ngang qua quán H, thấy nhóm Tr, nên cùng vào uống bia chung (tổng cộng 11 người).
Sau khi bị Văn Tr1 và T đánh, S được Kh và Nh đưa về phòng trọ (đường HT 06, tổ 33, Khu phố 3, phường H1, Quận 12) băng bó vết Th. S hỏi Nh, thì được biết nhóm Tr đang uống bia quán tại ốc H (khi Nh đi mua đồ băng bó vết Th cho S, nhìn thấy nhóm Tr ở trong quán). S gọi điện nói cho Võ Công Th biết bị nhóm Tr đánh và rủ Th đến đánh lại nhóm của Tr. Th rủ Võ Ngọc D1 (anh ruột của Th), Phạm Minh S1, Trần Ngọc T1, Võ Thanh Tr2 và anh Nguyễn Văn S2 cùng đi đánh nhóm của Tr, còn Nh đi qua phòng trọ của bạn ngủ, không tham gia. Sau đó, S gặp D1, Th, S1, Tr2, T1, S và anh S2 tại khu vực cổng Công ty V (phường H1, Quận 12). S nói cho cả nhóm biết nhóm của Tr đang ở quán ốc H, rồi tất cả lên xe đi đến quán ốc H, để đánh nhóm của Tr (tổng cộng 08 người). Lúc này, Kh trên đường đi nhìn thấy nhóm S, nên cũng chạy bộ theo sau.
Tại quán ốc H, khi nhóm của Tr nhìn thấy nhóm của S, thì Tr và E cầm vỏ chai bia dưới gầm bàn, rồi cùng với D, H, Kh1, Văn Tr1, T, Ch, B, Thành Tr2, L bỏ chạy ra bên ngoài. E cầm vỏ chai bia ném trúng xe của D1, D1 điều khiển xe đâm vào người E làm E ngã xuống đường, rồi D1, Th, S2, S, S1, T1 xuống xe dùng tay, chân đánh E bất tỉnh. Nhóm của S tiếp tục đuổi đánh nhóm của Tr. Tr, D, H, Kh1, T, Ch, B, L, Văn Tr1 bỏ chạy vào phòng trọ của Văn Tr1 (đường H, Khu phố 3, phường H1, Quận 12, cách quán H khoảng 50m). Ch la lên “Út ơi, tụi nó rượt đánh tụi con, thằng E bị rớt” (Út là tên gọi thường ngày của Th1). Thành Tr2 không chạy vào nhà mà đứng bên ngoài cầm vỏ chai bia ném về phía nhóm của S.
Khi vào phòng trọ, Văn Tr1 và T mỗi người lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 1,2m (cán bằng kim loại dài khoảng 01m, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 20cm, bề ngang lưỡi dao chỗ rộng nhất khoảng 10cm, mũi nhọn); Ch lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 01m (cán bằng kim loại dài khoảng 70cm, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30cm, mũi bằng); L lấy 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 40cm (cán dài khoảng 30cm, lưỡi dài khoảng 10cm); D lấy khúc cây tre dài khoảng 1,6m; Tr lấy cây gỗ tròn dài khoảng 50cm; Th1 (không đi uống bia, về phòng trọ từ trước) lấy 01 con dao tự chế bằng kim loại; B lấy một cây gỗ, rồi tất cả chạy ra ngoài đường H, Khu phố 3, phường H1, Quận 12, để đánh nhóm của S.
Lúc này, Tr cầm vỏ chai bia ném về nhóm của S; Văn Tr1 cầm dao chém trúng tay phải và lưng của D1. Th1 thấy E đang nằm dưới đường do bị nhóm của S đánh, nên Th1 cầm dao chạy đến đánh để giải vây cho E, thì nhóm của S bỏ chạy, Th1 không đuổi theo mà nhờ Nguyễn Hoàng C1 (bạn của Th1) đưa E đi cấp cứu, rồi Th1 quay về phòng trọ, cất dao dưới giường ngủ. Văn Tr1 tiếp tục cầm dao đuổi theo Th, D1, S, S1 và T1. Văn Tr1 cầm dao chém 01 nhát trúng vai phải của Th. L, Ch, T cầm dao, D cầm cây tre, Tr cầm cây gỗ đuổi đánh anh S2. L cầm dao chém 02 nhát trúng lưng anh của S2, anh S2 bỏ chạy, L xông vào chém tiếp 01 nhát trúng tay phải của anh S2. Ch cầm dao xông vào chém anh S2 01 nhát theo hướng từ trên xuống, nhưng do anh S2 bị vướng vào xe gắn máy để ở lòng đường, mất đà lao người về phía trước và do cán dao của Ch dài, nên cán dao (bằng kim loại) trúng vào đỉnh đầu của anh S2 thì T cầm dao đâm 01 nhát trúng hông bên phải của anh S2. Anh S2 bỏ chạy, L, Ch, T, Tr và D tiếp tục đuổi theo. Khi anh S2 bỏ chạy, va trúng vào người Văn Tr1, bị Văn Tr1 cầm dao chém 01 nhát trúng vào lưng của anh S2. Anh S2 bỏ chạy đến trước nhà số 144A đường HT 06, phường H1, Quận 12, thì gục ngã, được quần chúng đưa đến Bệnh viện quận 12 cấp cứu, nhưng đã chết trước khi nhập viện, còn E được đưa đến Bệnh viện huyện Hóc Môn chữa trị Thương tích.
Nhóm của Tr sau khi đuổi đánh nhóm của S, trên đường quay về đến gần phòng trọ thì Kh1 và H mỗi người cầm 01 cây gỗ đi ra gặp nhóm Tr, rồi tất cả đi về nhà trọ của Văn Tr1. Tại đây, Tr1 lấy xe mô tô chở T mang theo 04 con dao tự chế đi vứt tại khu vực bãi đất trống thuộc khu dự án 12,5 ha (tổ 37, Khu phố 3, phường H1, Quận 12), nên không thu giữ được.
Tại Kết luận giám định pháp y tử thi số 1081-19/KLGĐ-PY ngày 26/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định nguyên nhân chết của Nguyễn Văn S2: Sốc mất máu không hồi phục do vết Th đâm thủng động mạch chủ bụng, tĩnh mạch chủ dưới.
Đối với Đỗ Văn Th1, khi nghe Nguyễn Tùng Ch la lên bị nhóm Nguyễn Ngọc S đuổi đánh, Th1 lấy dao từ trong nhà trọ xông ra để đánh nhóm của S. Nhưng khi thấy Dương Văn E bị đánh nằm bất tỉnh, Th1 cầm dao xông vào để giải vây cho E và nhờ người đưa E đi cấp cứu. Sau đó, Th1 không tham gia đánh nhau, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý Th1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” là có cơ sở.
Đối với B, Thành Tr2 và H có hành vi sử dụng hung khí đánh nhau với nhóm của Nguyễn Ngọc S ở nơi công cộng, là có dấu hiệu phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Nhưng do chưa xác định được nhân thân của B, Thành Tr2 và H, nên chưa ghi được lời khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã gửi thông báo truy tìm (bút lục 1026) để xem xét xử lý sau khi đủ chứng cứ.
Đối với Nguyễn Hoàng Kh1 và H (chưa rõ lai lịch), khi bị nhóm của S đuổi đánh đã bỏ chạy vào nhà trọ của Văn Tr1, sau đó lấy mỗi người 01 cây gỗ dài khoảng 45cm chạy ra nhằm mục đích đuổi đánh nhóm của S. Nhưng do thời điểm Kh1 và H chạy ra thì hành vi phạm tội của các bị can đã chấm dứt, đang trên đường quay về phòng trọ, do Kh1 và H không tham gia đánh nhau, nên chưa đủ cơ sở để xứ lý Kh1 và H về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Ngoài ra, xét thấy Nguyễn Hoàng Kh1 và H không chứng kiến các bị can dùng hung khí chém chết anh Nguyễn Văn S2, không biết anh S2 bị chém chết và đến ngày 14/7/2020, Tr và L đã ra đầu thú, nên không có cơ sở xem xét xử lý Kh1 và H về tội “Không tố giác tội phạm”.
Đối với Dương Văn E (sinh ngày 15/5/2004) có hành vi dùng vỏ chai bia ném vào nhóm Nguyễn Ngọc S khi bị nhóm S đuổi đánh, là có dấu hiệu phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”. Nhưng do tính đến ngày 13/7/2019 xảy ra vụ án, E chưa đủ 16 tuổi, nên hành vi không cấu thành tội phạm.
Đối với Trần Đăng Kh có hành vi chạy bộ theo nhóm Nguyễn Ngọc S, nhưng khi đến nơi thì sự việc đánh nhau đã xong, Kh không tham gia đánh nhau, nên không có cơ sở xem xét xử lý đối với Kh.
Đối với hành vi Bùi Văn Tr1 dùng dao chém Võ Công Th gây Thương tích 04% (bút lục 847), chém Võ Ngọc D1 gây Thương tích 10% (bút lục 851), do D1 và Th viết đơn không yêu cầu xử lý hình sự (bút lục 409, 437), nên hành vi của Bùi Văn Tr1 không cấu thành tội “Cố ý gây Thương tích”.
Đối với hành vi Bùi Văn Tr1, Huỳnh Ngọc T đánh Nguyễn Ngọc S và đối với hành vi Nguyễn Ngọc S, Võ Công Th, Võ Ngọc D1, Nguyễn Văn S2, Trần Ngọc T1, Phạm Minh S1 đánh Dương Văn E, do S và E viết đơn từ chối giám định tỷ lệ thương tích, không yêu cầu xử lý hình sự (bút lục 390, 503), nên hành vi của Văn Tr1, T, S, Th, D1, S2, T1, S1 không cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”.
Tại Bản cáo trạng số 104/CT-VKS-P2 ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:
Các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Bùi Văn Tr1, Huỳnh Ngọc T, Nguyễn Tùng Ch và Trần Quốc D về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Các bị cáo Nguyễn Ngọc S, Võ Công Th, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Thanh Tr2 và Phạm Minh S1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 267/2022/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 123, điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Lê Công Tr 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.
Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Huỳnh Ngọc T 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
Xử phạt: Phan Tấn L 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.
Xử phạt: Bùi Văn Tr1 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
Xử phạt: Nguyễn Tùng Ch 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Trần Quốc D 05 (năm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2020.
Căn cứ khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt: Nguyễn Ngọc S 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Công Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Ngọc D1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Thanh Tr2 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Trần Ngọc T1 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Phạm Minh S1 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/6/2022, Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 34/KNPT-VKS-P2 kháng nghị đối với bản án sơ thẩm; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1, Trần Quốc D về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với các bị cáo.
Ngày 16/6/2022, bị cáo Võ Thanh Tr2, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 17/6/2022, bị cáo Nguyễn Ngọc S có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo hoặc giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Võ Thanh Tr2, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Đối với các bị cáo bị xét xử về tội “Cố ý gây Thương tích”, mức hình phạt cấp sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo là phù hợp nên đề nghị bác kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với các bị cáo bị xét xử về tội “Giết người”, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là đánh giá không đúng với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm theo hướng tuyên bố các bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tr, Tr1, L, Ch, T từ 16 đến 18 năm tù; xử phạt D từ 10 đến 12 năm tù.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Công Tr trình bày: Nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của nhóm bị cáo Tr là do hành vi gây rối trật tự công cộng của nhóm bị cáo S gây ra; nhóm bị cáo Tr không cố ý giết người. Sau khi phạm tội, bị cáo Tr đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, đã tác động gia đình khắc phục xong hậu quả; bản thân bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Ngọc T trình bày: Bị cáo T không cố ý giết người, nạn nhân chết là ngoài ý muốn của bị cáo; mâu thuẫn đã giải quyết xong, nhóm của bị cáo S tiếp tục gây sự nên mới xảy ra sự việc. Sau khi phạm tội, bị cáo T cũng đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Phạm Tấn L trình bày: Nhóm nạn nhân có lỗi dẫn đến việc phạm tội của nhóm bị cáo L nên Luật sư không đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát đề nghị xét xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ tự thú nhưng chưa được cấp sơ thẩm áp dụng; sau khi phạm tội đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho bị hại; gia đình bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn Tr1 trình bày: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường xong cho người bị hại; khi phạm tội bị cáo tuổi còn trẻ, bồng bột và do có một phần lỗi từ hành vi trái pháp luật của phía bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tùng Ch trình bày: Nhóm các bị cáo phạm tội giết người thực hiện hành vi sau khi mâu thuẫn giữa hai nhóm đã được hòa giải, sau đó nhóm bị hại lại gây sự trước, dẫn đến hành vi phạm tội của nhóm bị cáo Ch. Bị cáo Ch phạm tội không có tính chất côn đồ, đã khắc phục xong hậu quả cho bị hại. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Quốc D trình bày: Bị cáo phạm tội không có tính chất côn đồ, bị cáo chưa thành niên nên nhận thức pháp luật hạn chế; sự việc xảy ra xuất phát từ lỗi của phía bị hại. Sau khi phạm tội, bị cáo D đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, đã tác động gia đình khắc phục xong hậu quả. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quyết định kháng nghị số 34/KNPT-VKS-P2 ngày 23/6/2022 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và đơn kháng cáo của bị cáo Võ Thanh Tr2, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S nằm trong hạn luật định, hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Vào ngày 13/7/2019, xuất phát từ mâu thuẫn giữa Nguyễn Ngọc S và Trần Quốc D trong lúc đi vệ sinh mà giữa nhóm Nguyễn Ngọc S và Lê Công Tr thách thức qua lại và đánh nhau tại quán ăn, được mọi người can ngăn ra về. Sau khi về nhà, S gọi điện nói cho Võ Công Th biết sự việc và rủ Th đánh của Tr; Th rủ Võ Ngọc D1, Phạm Minh S1, Trần Ngọc T1, Võ Thanh Tr2, Nguyễn Văn S2 cùng tham gia. Khi nhóm của Tr nhìn thấy nhóm của S, thì nhóm của Tr cầm vỏ chai bia dưới gầm bàn chạy ra bên ngoài. E cầm vỏ chai bia ném trúng xe của D1, D1 điều khiển xe đâm vào người E làm E ngã xuống đường, rồi D1, Th, S2, S, S1, T1 (nhóm của S) xuống xe dùng tay, chân đánh E bất tỉnh. Nhóm của S tiếp tục đuổi đánh thì nhóm của Tr bỏ chạy vào phòng trọ của Văn Tr1.
Khi vào phòng trọ, Văn Tr1 và T mỗi người lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 1,2m; Ch lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 01m; L lấy 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 40cm D lấy khúc cây tre dài khoảng 1,6m; Tr lấy cây gỗ tròn dài khoảng 50cm để đánh nhóm của S. Sau đó, Tr cầm vỏ chai bia ném về nhóm của S; Văn Tr1 cầm dao chém trúng tay phải và lưng của D1. Văn Tr1 tiếp tục cầm dao đuổi theo Th, D1, S, S1 và T1; chém 01 nhát trúng vai phải của Th. L, Ch, T cầm dao, D cầm cây tre, Tr cầm cây gỗ đuổi đánh anh S2. L cầm dao chém 02 nhát trúng lưng anh của S2, anh S2 bỏ chạy, L xông vào chém tiếp 01 nhát trúng tay phải của anh S2. Ch cầm dao xông vào chém anh S2 01 nhát theo hướng từ trên xuống, anh S2 mất đà lao người về phía trước làm cán dao của Ch đâm trúng vào đỉnh đầu của anh S2; T cầm dao đâm 01 nhát trúng hông bên phải của anh S2. Anh S2 bỏ chạy, L, Ch, T, Tr và D tiếp tục đuổi theo. Khi anh S2 bỏ chạy, va trúng vào người Văn Tr1, bị Văn Tr1 cầm dao chém 01 nhát trúng vào lưng của anh S2. Hậu quả, anh S2 tử vong.
[3]. Xét kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1, Trần Quốc D:
[3.1]. Trên cơ sở diễn biến hành vi của các bị cáo như đã nêu tại mục [2] thấy rằng mặc dù các bị cáo thuộc nhóm của Nguyễn Ngọc S đến tìm nhóm của Lê Công Tr để đánh nhau trước nhưng nhóm của S không mang theo hung khí. Khi nhóm của S tấn công thì nhóm của Tr đã đi vào phòng trọ của Văn Tr1; sau đó nhóm của Tr sử dụng hung khí (dao tự chế, cây gỗ) để tấn công lại nhóm của S. Anh Nguyễn Văn S2 (thuộc nhóm của S) không mang theo hung khí, lúc này đã bỏ chạy nhưng nhóm của Tr vẫn đuổi theo. Trong đó Tr dùng cây để đánh anh S2, L dùng dao chém 02 nhát vào lưng anh S2; Ch chém 01 nhát vào đỉnh đầu anh S2; T đâm 01 nhát vào vùng hông phải của anh S2. Anh S2 bỏ chạy thì L, Ch, T, Tr, D tiếp tục đuổi theo; khi anh S2 va vào người Văn Tr1 thì bị Văn Tr1 chém 01 nhát vào vùng lưng. Hành vi của các bị cáo L, Ch, T, Tr, D, Văn Tr1 thể hiện ý thức muốn tước đoạt mạng sống của bị hại đến cùng, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật. Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1, Trần Quốc D về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa đánh giá đúng mức độ, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[3.2]. Về hình phạt:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống hàng ngày mà các bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại dẫn đến tử vong. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong nhóm các bị cáo phạm tội “Giết người” thì bị cáo Lê Công Tr là người có vai trò chính; bị cáo Tr là người gây mâu thuẫn với nhóm của bị cáo S, rủ rê các bị cáo khác tới để đánh nhau với nhóm của S; cùng với các bị cáo L, Ch, T, D, Văn Tr1 trực tiếp đuổi đánh anh S2 dẫn đến tử vong. Vì vậy, bị cáo Tr phải chịu trách nhiệm cao hơn các bị cáo khác. Bị cáo Huỳnh Ngọc T là người gây ra vết Th chính dẫn đến cái chết của người bị hại. Bị cáo L chém bị hại 02 nhát; bị cáo Ch và Văn Tr1, mỗi bị cáo chém anh S2 01 nhát, các vết Th này không phải là vết Th chính dẫn đến bị hại tử vong; bị cáo D cầm cây đuổi theo, cùng ý chí với các bị cáo khác về việc tấn công anh S2 nhưng chưa đánh trúng. Hội đồng xét xử phúc thẩm đánh giá vai trò của từng bị cáo như trên để cân nhắc mức lượng hình phù hợp đối với các bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng, các bị cáo Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1, Trần Quốc D không có tình tiết tăng nặng; bị cáo Lê Công Tr có 01 tình tiết tăng nặng “xúi giục người chưa thành niên phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, trong vụ án này các bị cáo đều có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú; gia đình đã bồi thường thiệt hại xong cho gia đình bị hại và được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Trần Quốc D thời điểm phạm tội chỉ mới 16 tuổi 08 tháng 18 ngày; sự việc xảy ra do lỗi của bên bị hại tấn công trước. Hội đồng xét xử phúc thẩm đánh giá đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như trên để đưa ra mức hình phạt phù hợp đối với từng bị cáo.
[4]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Thanh Tr2, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S:
Trong vụ án này, nguyên nhân để xảy ra đánh nhau là do Nguyễn Ngọc S xích mích với Lê Công Tr; từ đó S đã rủ Võ Thanh Tr2, Trần Ngọc T1, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, bị hại Nguyễn Văn S2 chủ động đi tìm nhóm của Lê Công Tr để gây sự, đánh nhau. Từ đó, nhóm của Tr tấn công lại và gây ra cái chết cho anh Nguyễn Văn S2; thương tích cho những người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự trị an tại địa phương, thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi của từng bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo S 01 năm 09 tháng tù, bị cáo Th, D1 01 năm 03 tháng tù, bị cáo Tr2, T1, S1 09 tháng tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Võ Thanh Tr2, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo; cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Riêng đối với bị cáo Trần Ngọc T1, tại phiên tòa phúc thẩm xuất trình thêm tình tiết ông nội là Liệt sĩ, bà nội là Th binh, là những người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để giảm nhẹ cho bị cáo Trần Ngọc T1 một phần hình phạt, giúp bị cáo an tâm cải tạo tốt, trờ thành công dân có ích cho xã hội.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Võ Thanh Tr2, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trần Ngọc T1 không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 355, Điều 356, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh Tr2, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S. Giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Võ Thanh Tr2, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc T1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 34/KNPT-VKS-P2 ngày 23/6/2022 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa một phần bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1; sửa một phần bản án sơ thẩm về điều khoản áp dụng đối với bị cáo Trần Quốc D; sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với Trần Ngọc T1.
1/. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Lê Công Tr 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.
2/. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Huỳnh Ngọc T 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
Xử phạt: Phan Tấn L 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2019.
Xử phạt: Bùi Văn Tr1 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
Xử phạt: Nguyễn Tùng Ch 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.
3/. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Trần Quốc D 05 (năm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2020.
4/. Căn cứ khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Nguyễn Ngọc S 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Công Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Ngọc D1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Võ Thanh Tr2 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Xử phạt: Phạm Minh S1 09 (chín) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
5/. Căn cứ khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Trần Ngọc T1 06 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
6/. Tiếp tục tạm giam các bị cáo Lê Công Tr, Phan Tấn L, Nguyễn Tùng Ch, Huỳnh Ngọc T, Bùi Văn Tr1, Trần Quốc D để đảm bảo thi hành án.
7/. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8/. Các bị cáo Võ Thanh Tr2, Võ Ngọc D1, Võ Công Th, Phạm Minh S1, Nguyễn Ngọc S; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trần Ngọc T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
9/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 531/2023/HS-PT
Số hiệu: | 531/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về