TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 52/2024/HS-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 812/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Hồng T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hải T1, sinh năm 1996 tại Thừa Thiên Huế; nơi ĐKHKTT: Tổ H, phường H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; tạm trú: 2 K, Phường F, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Thợ sơn; con ông: Nguyễn Hồng T2 và bà: Nguyễn Thị X; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Nguyễn Bảo D - Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 29/4/2022, sau khi ăn và uống rượu tại phòng trọ của P ở số B N, Phường F, thành phố Đ thì Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hải T1 và Trần Duy P1 rủ nhau đi hát karaoke tại quán T5 trên đường M, Phường F, thành phố Đ. Đến khoảng 20 giờ thì cả nhóm đi về. T điều khiển xe mô tô chở P1, T1 điều khiển xe mô tô BKS: 75D1 - X đi một mình. Khi đi đến đoạn đường N trước cổng Trường THCS L thì xe của T1 va chạm với xe mô tô BKS: 49E1 - X do Trần Minh T3 điều khiển. Hai bên xảy ra mâu thuẫn. Sau đó T3 điều khiển xe bỏ chạy đến gần nhà ở số G N, Phường F, thành phố Đ thì T3 bỏ xe bên đường và chạy xuống hẻm nhà mình. P1, T1 và T cũng dùng xe mô tô đuổi theo đến trước hẻm nhà T3, thấy T3 đứng dưới hẻm cách chỗ P1, T1 và T khoảng 15 - 20m, hai bên tiếp tục cãi nhau. P1 nhìn thấy một đoạn sắt chữ V cạnh đó nên cầm thì T1 giật đoạn cây sắt khỏi tay P1 rồi đi đến vị trí xe moto của T3 đập liên tiếp nhiều cái vào xe làm vỡ các bộ phận bằng nhựa của xe. P1 cũng đi đến vị trí xe của T3. Thấy dưới đường có một khúc cây tròn nên Phong cầm và đập một cái vào xe của T3, khi đó T1 vẫn đang tiếp tục đập phá xe của T3, Lúc này T vẫn đứng trong hẻm và cách T3 khoảng 15 - 20 m. Sau khi P1 dùng đoạn cây đập xe của anh T3 xong thì đi đến chỗ T rồi cùng T quay lại vị trí mà T1 đang đập xe của T3. Khi P1 lấy lại đoạn cây sắt mà T1 đang cầm thì T giật lại và dùng cây sắt đập khoảng 04 - 05 cái trúng vào phần đầu xe của T3. Ngay lúc đó T3 cùng một số người dân hô hoán thì P1 bỏ chạy bộ về phòng trọ, còn T và T1 điều khiển 02 xe mô tô bỏ chạy ra đầu đường đứng đợi.
Thấy P1 không quay lại nên T nói với T1: “chạy về phòng trọ lấy hàng”, nghe vậy thì T về phòng trọ ở đường L - Đ lấy hai con dao (loại dao “mèo”, dài 35cm, cán bằng gỗ dài 15cm, lưỡi bằng thép dài khoảng 20cm). Triều cũng về phòng trọ ở đường K lấy một con dao (dạng kiếm nhật, dài khoảng 40cm, cán bằng nhựa quấn vải dài 20cm, lưỡi bằng thép dài khoảng 20cm). Sau khi lấy hung khí như vậy thì T và T1 quay lại chỗ vừa đập phá xe của anh T3. Trong khoảng thời gian này Nguyễn Trí Dũng C, Đặng Nguyễn Lê H và Đỗ Minh T4 đi uống cà phê về đến đầu đường N thì thấy chiếc xe Wave của T4 nằm ở đầu đường. Sau khi nói chuyện với anh T4 thì cả ba biết được việc T4 vừa va chạm xe và bị đuổi đánh. Nói chuyện được một lúc thì C, H và Đỗ Minh T4 thấy T và T1 cầm theo dao đi tới gần chỗ xe Wave của anh T4. Thấy vậy thì C, H và Đỗ Minh T4 đi về. Ngay lúc đó ông Trần Văn R (là cha ruột của Trần Minh T3) đi đến phía T và T1. Đến gần thì ông R dùng tay quật ngã Triều. Thấy vậy T liền vung dao đang cầm trên hai tay chém liên tiếp vào người ông R, T1 cũng đứng dậy xông vào dùng dao chém ông R nhiều nhát. Bị chém thì ông R ngã ngửa xuống đường, lúc này T và T1 vẫn tiếp tục chém liên tiếp vào người, đầu, mặt của ông R. Trong lúc T và T1 chém ông R thì bà Lê Thị H1 là vợ ông R chạy đến can ngăn kéo T ra thì bị T dùng dao chém trúng vào tay bà H1. Khi anh C, H và Đỗ Minh T4 đi được một đoạn thì nghe thấy phía nhà ông R có tiếng la hét. Nên cả nhóm quay lại. Trên đường quay lại thì C và Đỗ Minh T4 lấy mỗi người một cán cờ bằng kim loại, dài khoảng 1,5m (đang dùng treo cờ trước cửa nhà người dân gần đó), H thì lấy một cây tre dài khoảng 1m.
Khi T và T1 đang dùng dao chém ông R và bà H1 thì thấy C, H và Đỗ Minh T4 cầm gậy đến, nên T và T1 cầm dao xông đến đánh nhau với C, H và Đỗ Minh T4. C dùng gậy đánh trúng tay T làm rơi con dao Thuận đang cầm. T nhặt con dao lên rồi cùng T1 đuổi đánh C, H và Đỗ Minh T4, được một đoạn thì T1 và T quay ra đầu đường N. Lúc này C, H và Đỗ Minh T4 quay lại đuổi theo T1 và T. Khi đến trước khu vực nhà ông R thì C thấy Nguyễn Hữu Duy Đ nên nói “giữ chân bọn nó lại, không cho lên xe”, nói xong thì cả nhóm đuổi theo T và T1 ra đến khu vực đường K thì T và T1 cầm dao đuổi ngược lại phía C, H, Đỗ Minh T4 và Đ. Thấy vậy thì nhóm của C bỏ chạy. Trong khi bỏ chạy thì Đ bị trượt chân ngã xuống đường. T và T1 cầm dao xông đến chém khoảng 10 nhát vào vùng đầu, mặt, tay, chân của Đ làm Đ gục xuống, thấy vậy T và T1 bỏ chạy. Sau đó bị bắt giữ.
Trong thời gian xảy ra vụ việc đánh nhau thì P1 ở phòng trọ của mình. Khoảng một giờ sau P1 quay lại chỗ đập phá xe trước đó thì biết có chém nhau. Sau đó P1 được công an triệu tập lên làm việc. (BL 182 -184. 205-208. 230-231).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 388/2022-TgT ngày 12/08/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh L kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Trần Văn R: 21% (hai mươi mốt phần trăm). (BL 151, 152) + Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 377/2022-TgT ngày 12/08/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh L kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Hữu Duy Đ: 55% (năm mươi lăm phần trăm).(BL 155, 156) + Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 372/2022-TgT ngày 12/08/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh L kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lê Thị H1: 9% (chín phần trăm) (BL 153, 154) Trách nhiệm dân sự:
Sau khi vụ án xảy ra, ông R và bà H1 đã chi phí điều trị hết số tiền 17.142.734đ. Gia đình bị cáo T và bị cáo T1 đã bồi thường số tiền cho ông R và bà H1 số tiền 22.000.000đ. Bà Lê Thị H1 và ông Trần Văn R yêu cầu gia đình bị cáo T và T1 bồi thường tổn thất về tinh thần số tiền 130.000.000đ.
Anh Nguyễn Hữu Duy Đ đề nghị bị cáo T và T1 bồi thường cho anh Đ số tiền điều trị thương tích là 120.461.000đ và bồi thường cho anh Đ số tiền tổn thất về tinh thần là 150.000.000đ .
Anh Trần Minh T3 bị thiệt hại chiếc xe mô tô BKS: 49E1 - X. Bị cáo P1 đã bồi thường số tiền 1.700.000đ. Anh T3 sẽ có yêu cầu và đề nghị cụ thể khi vụ án được đưa ra xét xử.
Cáo trạng số 06/CT-VKS-P2 ngày 13/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Thuận về tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 và điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Hải T1 về tội “Giết người” quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; Trần Duy P1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã trả hồ sơ điều tra bổ sung việc bị cáo T khiếu nại đối tượng ông Nguyễn Trí Dũng C gây thương tích cho Nguyễn Hồng T, sau khi điều tra lại thì Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng vẫn giữ nguyên Cáo trạng số 06/CT-VKS-P2 ngày 13/01/2023 với lý do hành vi của ông Nguyễn Trí Dũng C chỉ ngăn cản sự tấn công của các bị cáo đối với bị hại, không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải T1 phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 15; Điều 57; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải T1 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 30/4/2022.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về mức hình phạt đối với các bị cáo khác trong cùng vụ án, phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/9/2023 bị cáo Nguyễn Hải T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và phần trách nhiệm dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, bị cáo đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự.
Về nội dung kháng cáo:
Bị cáo tự nguyện rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận và đình chỉ giải quyết kháng cáo đối với nội dung này.
Về nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:
Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện cấp sơ thẩm xét xử đúng người, đúng tội, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị cáo cùng Luật sư trình bày:
Thống nhất về tội danh “Giết người” đối với bị cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ thêm cho bị cáo, hoàn cảnh bị cáo khó khăn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hình phạt của án sơ thẩm là quá nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt , giúp bị cáo sớm trở lại với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hải T1 làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, xét đây là sự tự nguyện của bị cáo, căn cứ Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hải T1.
[2] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:
Trên cơ sở các chứng cứ, lời khai của các bị cáo thể hiện:
Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 29 tháng 4 năm 2022, sau khi xe moto của Nguyễn Hải T1 và Trần Minh T3 xảy ra va chạm giao thông thì Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hải T1 và Trần Duy P1 đã có hành vi đuổi đánh anh T3, khi anh T3 về gần nhà và bỏ xe để chạy thì các bị cáo dùng hung khí đập phá chiếc xe mô tô BKS: 49E1 - X của anh Trần Minh T3. Sau đó P1 về lại phòng trọ, còn Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hải T1 cũng quay về phòng trọ của mình lấy hung khí quay lại khu vực mà trước đó đã đập phá xe của anh T3, sau đó sử dụng dao đánh, chém nhiều lần vào vùng đầu ông Trần Văn R và anh Nguyễn Hữu Duy Đ. Khi bà Lê Thị H1 vào can ngăn thì Nguyễn Hồng T còn có hành vi sử dụng con dao chém trúng mu bàn tay trái gây thương tích cho bà Lê Thị H1. Giám định pháp y về thương tích của Trung tâm giám định pháp y tỉnh L kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Trần Văn R: 21%; Nguyễn Hữu Duy Đ: 55%; Lê Thị H1: 9%.
Tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, kết quả giám định thương tích, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu nhận vật chứng, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định Nguyễn Hải T1 phạm tội “Giết người” quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm đồng xét xử bị cáo về tội danh trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo T1 là đặc biệt nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm về tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc dùng dao là hung khí nguy hiểm nhưng vẫn cố ý đánh, chém quyết liệt vào vùng trọng yếu của cơ thể là đầu của ông R và anh Đ, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của ông R và anh Đ dẫn đến hậu quả làm cho các bị hại bị thương tích nặng, việc các bị hại không chết là do được đưa đi cứu chữa kịp thời. Giữa bị cáo và các bị hại không có mâu thuẫn gì nhưng các bị cáo đã vô cớ thực hiện hành vi phạm tội đối với cả 02 người, thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn, coi thường tính mạng của người khác và đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào lời khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì khi T nói với T1 “chạy về phòng trọ lấy hàng”, mục đích của T lúc này là rủ T1 đi cùng và để tìm đánh anh T3. Triều tiếp nhận ý chí và chuẩn bị hung khí để đi cùng T. Khi đến trước nhà anh T3 thì T và T1 dùng dao chém vào ông R và anh Đ cho đến khi các bị hại gục xuống. Như vậy, T và T1 là đồng phạm về tội “Giết người” và phải chịu trách nhiệm ngang nhau về hậu quả của vụ án.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo phạm tội có hai tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại ông R, bà H1 và anh Đ, gia đình bị cáo T1 có công với cách mạng nên áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên được áp dụng Điều 15, Điều 57 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt.
Đối với ý kiến của Luật sư đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, như nhận định trên, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.
Xét thấy cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và đưa ra mức hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[5] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét .
Do không được chấp nhận kháng cáo, bị cáo T1 phải chịu 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 342, khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của bị cáo Nguyễn Hải T1; Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Hải T1; giữ nguyên bản án Hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Tuyên xử:
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải T1 phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 15; Điều 57; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải T1 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 30/4/2022.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hình sự phúc thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Hải T1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 52/2024/HS-PT
Số hiệu: | 52/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về