Bản án về tội giết người số 505/2021/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 505/2021/HSPT NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2021/TLPT-HS ngày 09 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Thị H và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Thị H , sinh năm 1978; nơi cư trú: số 282, đường Trần Hưng Đ , thị trấn N1 S, huyện N1 S1, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N1; con ông Phạm Văn T và bà Hồ Thị H; có chồng Phạm Văn H1 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 51/2015/HSPT ngày 30/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt Phạm Thị H 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng, về tội “Cố ý gây thương tích”, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (30/6/2015); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/5/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Ngô Duy T, sinh năm 1998; cư trú tại: thôn Đông P, xã Đồng L, huyện N1 S1, tỉnh Hải Dương; giới tính: N1; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt N1; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Ngô Văn C và bà Vũ Thị V; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; vắng mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Ngô Đ M, sinh 2001; địa chỉ: thôm Miếu L1, xã Đồng L, huyên N1 Sách, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị H do Tòa án chỉ định: Luật sư Đoàn Văn H2 - Văn phòng luật sư N1 H3, Đoàn luật sư tỉnh Hải Dương; có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Ngô Đ M có kháng cáo nhưng đã xin rút kháng cáo, 05 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị; người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bị hại không kháng cáo, Tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 20 phút, ngày 01/5/2020, Ngô Đ M và Ngô Duy T đến quán ăn của anh Trần Đ M1, sinh năm 1976, địa chỉ: ngõ 2, đường Mạc Đĩnh C, khu La Văn C2, thị trấn N1 S, huyện N1 S1, tỉnh Hải Dương. Khi M, T vào quán thì gặp Nguyễn Huy Đ, Trần Đ T3, Trần Việt T4, Nguyễn Đình N3 và Phạm Văn H5 đang ngồi ăn tại quán. M, T gây sự cho rằng Đ, T2 “nhìn đểu” mình nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. M lấy 01 con dao thái thịt tại quán đến bàn ăn nhóm Đ thách thức, dọa chém Đ và T2 thì bị anh M6 chủ quán giằng lại dao. Thấy vậy, Đ, T2, T3, N1 đứng dậy đi ra lấy xe mục đích về lấy hung khí, vũ khí để ra đánh nhau, thì bị M, T chặn ở đầu xe thách thức. M nói “thích thì về lấy đồ ra đây đánh nhau cho vui”. Sau đó T3 chở Đ đến quán Spa ở số 282 Trần Hưng Đ , thị trấn N1 S (là nhà ở của vợ chồng Phạm Văn H5, Phạm Thị H ), Đ lên tầng 5 vào đầu giường nơi Đ thường ngủ lấy 01 khẩu súng côn do Đ cất giấu trước đó, xuống nhà rồi T3 điều k H8 xe đạp điện chở Đ ra khu vực cầu gỗ thị trấn N1 S đứng đợi, còn T3 vào nhà ông Hoà lấy 01 con dao tự chế. T2 và N1 đi đến nhà ông Phạm Văn H6 (bố đẻ của H5) ở khu Nội H7, thị trấn N1 S, huyện N1 S1, T2 bảo N1 lên tum nhà ông H6 lấy 01 khẩu súng bắn đạn ghém (đạn H7 cải) và 04 viên đạn đưa cho T2. Tại đây, T2 lắp 01 viên đạn vào súng, số đạn còn lại để vào túi quần. Lúc này, T2, N1 gọi và gặp Phạm Thị H , kể lại việc mâu thuẫn với M, T , sau đó T2 cầm khẩu súng H7 cải nói với H7 “Xin phép cô cho con bắn chết bọn chó này”, nghe vậy H7 nói “Thế chú đâu”, T2 nói “Chú H5 đang ở ngoài quán”, H7 liền bảo T2 “thế thì đi đi”. T2 liền cầm theo súng ngồi sau xe N1, còn T3 đi xe đạp điện, cả ba người ra chỗ Đ đang đợi, Đ ngồi lên xe N1 rồi cả nhóm cùng quay lại quán ăn đêm nhà anh M6. Khi đến nơi, Đ cầm súng côn nhảy xuống xe chạy vào quán hướng súng về phía T và M đe doạ, lúc này H5 đang ở quán dùng tay trái cản Đ lại, Đ xông về phía M liền bị M cầm muôi múc phở của quán đánh lại, T bỏ chạy vào nhà vệ sinh. T2 cầm súng bắn đạn ghém, T3 cầm dao, N1 cầm 01 ghế nhựa đuổi đánh M, M chạy vào đến khu vực nhà vệ sinh thì Đ và M giằng co nhau làm M bị ngã nghiêng bên phải mặt hướng vào bếp, lưng quay vào tường tiếp giáp cầu thang. T2 liền hướng nòng súng nhằm vào mạn sườn trái của M, khoảng cách từ nòng súng đến người M từ 50cm - 70cm bắn 01 phát làm M bị thương ở phía sau cánh tay trái và đạn găm vào cánh cửa nhà vệ sinh. T2 chạy quay ra phòng khách tiếp tục nạp đạn định bắn M thì H5 cản lại và đuổi về. Ngay sau đó, H5, T2, Đ, T3, N1 rời khỏi hiện trường. M được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa kH7 tỉnh Hải Dương và chuyển lên Bệnh viện 108 Hà Nội điều trị đến ngày 26/5/2020 ra viện.

Khi sự việc xảy ra, Phạm Văn H5 có mặt tại quán ăn của anh M6 chứng kiến toàn bộ hành vi của T2, Đ, N1 và T3. Sau đó, T3 điều k H8 xe đạp điện chở H5 về nhà ông Hoà, còn T2, Đ, N1 mang 02 khẩu súng đến nhà Mạc Văn T5, sinh năm 1995, ở Đồng Lạc, N1 Sách (là con rể H5 - H7) mục đích nhờ T5 cất giữ hộ súng. T2, Đ gặp T5 tại sân và nói cho gửi hai khẩu súng nhưng T5 không nhận lời. Sau đó, T2 mang khẩu súng H7 cải cất vào trong bếp, còn khẩu súng côn Đ mang theo trên người. Đ lấy ô tô chở T2, N1 quay về nhà ông H6 để gặp H7, H5. Khi gặp (tại sân nhà ông H6), H7, H5 chỉ đạo và đưa T3 6 triệu đồng để cả nhóm sử dụng khi đi trốn, H7 có nhờ Đỗ Văn H8, sinh năm 1988, ở xã Quảng T2, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng giúp cho Đ, T2, N1, T3 đi trốn. H8 điện thoại cho Ngô Văn Đ (tên gọi khác là Trí), sinh năm 1990, trú tại xã Hợp T, Thủy N, Hải Phòng là bạn đón nhóm Đ và nhờ Đ giữ hộ khẩu súng côn. Đ cầm khẩu súng côn do Đ đưa mang về nhà cất giấu, đến khoảng 21 giờ ngày 01/5/2020 Đ giao nộp khẩu súng này cho Công an huyện N1 S1. Sau đó Đ, T2, N1, T3 tiếp tục bỏ trốn. Đối với H7, sau khi cả nhóm Đ bỏ trốn thì H7 đã đi xe ô tô đến nhà Mạc Văn T5 lấy khẩu súng bắn đạn H7 cải đem đến khu vực cầu Hàn vứt xuống sông Thái Bình. Đến 22 giờ ngày 03/5/2020, Đ, T2, N1 và T3 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N1 S1 đầu thú. Ngày 10/5/2020 H7 ra đầu thú khai nhận hành vi của mình.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 2565/C09-TT1 ngày 6/5/2020 của Viện KH7 học hình sự - Bộ Công an kết luận: Ngô Đ M bị vết thương do hỏa khí mặt sau trong 1/3 giữa cánh tay trái, đứt dập một phần cơ T5 đầu, đã điều trị lấy dị vật và cắt bỏ tổ chức phần mềm dập nát, hiện tại để lại các thương tích sau: Diện sây sát, khuyết da và lõm sâu do cắt bỏ một phần cơ T5 đầu tại 1/3 giữa cánh tay trái, gây hạn chế nhiều hoạt động cánh cẳng tay trái. Vết mổ mặt trong 1/3 giữa cánh tay trái. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể: Đối chiếu bảng 1 Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể TT 22 ngày 28/8/2019 của Bộ y tế xác định diện sây sát, khuyết da và lõm sâu do cắt bỏ một phần cơ T5 đầu tại 1/3 giữa cánh tay trái 16% (áp dụng nguyên tắc 4 và Mục II.5 Chương 8). Vết mổ mặt ngoài 1/3 cánh tay trái 3% (áp dụng nguyên tắc 3, 4 và Mục I.3 Chương 8). Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Ngô Đ M tại thời điểm giám định là 19%.

Tại Văn bản số 1434/C09-P3 ngày 03/8/2020 của Viện KH7 học hình sự - Bộ Công an xác định: Khi sử dụng khẩu súng bắn đạn ghém các cỡ 12, 16…32, vào mạn sườn trái của người với khoảng cách 50cm đến 70cm từ mũi súng đến người có thể gây chết người.

Tại Kết luận giám định số 2554/C09-P3 ngày 6/5/2020 của Viện KH7 học hình sự - Bộ Công an kết luận: Khẩu súng gửi giám định là súng ổ quay tự chế cỡ nòng 5,6mm, có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng. Hiện tại súng còn sử dụng để bắn được; 04 viên đạn và vỏ đạn màu vàng dài 15,5mm gửi giám định là đạn và vỏ đạn của loại đạn thể thao cỡ 5,6x15,5mm, không phải vũ khí quân dụng và sử dụng lắp bắn được cho khẩu súng nêu trên; Khi sử dụng súng và đạn nêu trên bắn vào người gây chết hoặc bị thương; 01 vỏ đạn màu vàng dài 6,8cm gửi giám định là vỏ của loại đạn ghém tự chế cỡ 12, không phải vũ khí quân dụng và sử dụng bắn được bằng súng có tính năng, tác dụng như súng săn, không phải vũ khí quân dụng hoặc các loại súng thuộc vũ khí quân dụng như: súng tự chế bắn đạn ghém cỡ 12, súng bắn đạn ghém cỡ 12 bị cắt ngắn nòng, báng…; 27 viên bi kim loại gửi giám định thường dùng làm thành phần để nhồi (đóng) trong đạn ghém các cỡ 12, 16…32, không có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng, không phải vũ khí quân dụng.

Quá trình điều tra, đã thu giữ của anh Trần Đ M1 01 thẻ nhớ chứa tệp video hình ảnh camera an ninh được lắp tại quán ghi lại nội dung diễn biến, hành vi của các bị can. Tại Kết luận giám định số 2549/C09-P6 ngày 21/5/2020 của Viện KH7 học hình sự - Bộ Công an xác định: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong 02 (hai) tệp video gửi giám định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, các Điều 15, 17, 57, 54, 58 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Thị H 08 năm tù về tội “Giết người chưa đạt”.

Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Duy T 12 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Đ M 02 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác; xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/01/2021 bị cáo Phạm Thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 18/01/2021, bị cáo Ngô Duy T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thị H giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo chỉ có mỗi lời nói khi T2 nói là đi đánh nhau, bị cáo nói là “thế thì đi đi” chứ bị cáo không ra chỗ nơi xảy ra đánh nhau, không có hành động gì liên quan đến thương tích mất 19% sức khỏe của anh Ngô Đ M; bị cáo có hai con còn nhỏ, chồng bị cáo cùng là bị cáo trong vụ án này. Vì vậy, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ngô Duy T vắng mặt: Hội đồng xét xử công bố lại nội dung bản kháng cáo và các tài liệu của bị cáo và các tài liệu có liên quan đến bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho người bị hại, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, có con nhỏ, chồng bị cáo cũng bị xử phạt trong vụ án này để xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo H7.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phân tích đánh giá diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo, vai trò của các bị cáo H7, T tham gia trong vụ án, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, đối với bị cáo T mức hình phạt là 12 tháng tù là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm đối với bị cáo T . Đối với bị cáo H7 tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo khai báo thật thà, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo là phụ nữ đang có hai con còn nhỏ, cả hai vợ chồng bị cáo đều cùng trong vụ án, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm, không trực tiếp tham gia, mức độ thấp hơn so với các bị cáo khác, nhưng mức hình phạt lại cao hơn các bị cáo khác trực tiếp thực hiện tội phạm, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo giảm một phần hình phạt cho bị cáo H7.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị H và bị cáo Ngô Duy T đảm bảo về mặt hình thức, trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ngô Duy T vắng mặt, nhờ người nộp đơn xin hoãn phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đánh giá đơn của bị cáo Ngô Duy T với lý do là bị ốm, ho, đau đầu không thể tham gia phiên tòa được là không hợp lệ, đề nghị Hội đồng T3 hành xét xử vắng mặt bị cáo nhưng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy đơn xin hoãn phiên tòa của bị cáo T vì lý do sức khỏe nhưng không có xác nhận của cơ quan y tế nên không cơ sở xem xét. Hội đồng xét xử nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và quyết định T3 hành xét xử vắng mặt bị cáo Ngô Duy T.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai của bị cáo Phạm Thị H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và lời khai của những người làm chứng cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Do có mâu thuẫn, khoảng 00 giờ 30 phút ngày 01/5/2020, tại quán ăn đêm của anh Trần Đ M1 ở khu La Văn Cầu, thị trấn N1 S, huyện N1 S1, tỉnh Hải Dương, Ngô Đ M, Ngô Duy T mâu thuẫn với nhóm của Nguyễn Huy Đ, Trần Đ T3, Trần Việt T4, Nguyễn Đình N3 và Phạm Văn H5 đang ăn tại quán nên Đ và T3 về nhà bị cáo H7, H5 ở số 282, đường Trần Hưng Đ , thị trấn N1 S, huyện N1 S1 lấy 01 khẩu súng côn là vũ khí quân dụng còn T3 về nhà ông H6 (bố bị cáo H5) ở khu Nội Hưng, thị trấn N1 S, huyện N1 S1 lấy 01 con dao tự chế. T2 chở N1 và bảo N1 lên chòi nhà ông H6 lấy 01 khẩu súng bắn đạn ghém và 04 viên đạn. Khi lấy súng xong thì T2 gặp Phạm Thị H ở nhà ông H6, T2 nói về mâu thuẫn với M, T và xin phép H7 cho đi bắn chết nhóm M và T thì được H7 đồng ý bảo “thế đi đi”. Sau đó Đ, T2, T3, N1 cầm theo súng, dao quay lại quán của anh M6, lúc này H5 đang có mặt tại quán, Đ cầm súng côn xông về phía M, H5 dùng tay cản nhưng không cản được, M cầm muôi múc phở đánh lại Đ, còn T3 cầm dao, N1 cầm ghế nhựa và T2 cầm súng bắn đạn H7 cải đuổi đánh M, M bỏ chạy vào khu vực nhà vệ sinh của quán thì Đ đuổi kịp, giằng co làm M ngã ra nền nhà, T2 liền cầm súng H7 cải nhằm vào mạn sườn trái của M, khoảng cách từ mũi súng đến người M khoảng 50cm - 70cm bắn 01 phát làm đạn trúng cánh tay trái M, T2 quay ra tiếp tục nạp đạn để bắn M thì bị H5 ngăn cản đuổi về. Hậu quả làm anh M bị tổn thương cơ thể 19% sức khỏe.

Hành vi của các bị cáo Trần Đ T3, Nguyễn Huy Đ, Nguyễn Đình N3, Trần Việt T4, Phạm Thị H chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, Đ đã đi lấy súng côn và T3 đi lấy súng săn bắn đạn ghém (đạn H7 cải) đưa cho T2, T3 cầm dao là hung khí nguy hiểm đến đánh nhóm M, T , trong đó T2 dùng súng H7 cải bắn vào mạn sườn trái (khu vực tim) làm đạn chì găm nhiều viên vào cánh tay trái của M, hành vi của các bị cáo có tính chất côn đồ, sử dụng súng nhằm bắn vào khu vực T yếu của cơ thể Anh Ngô Đ M, tuy không xảy ra chết người nhưng để lại di tật và thương tích cho anh M mất 19% sức khỏe.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự; hành vi của Ngô Duy T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó các bị cáo Đ, N1, T3, trực tiếp tham gia vai trò đồng phạm tích cực, bị cáo H7 tham gia với vai trò đồng phạm, tiếp nhận ý trí của cả bọn và giúp sức về tinh thần khi cả bọn thực hiện tội phạm.

[3] Xét Hành vi phạm tội “Giết người” của bị cáo Phạm Thị H và hành vi phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” của bị cáo Ngô Duy T là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ đồng thời con gây mất trật tự công cộng xã hội, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội ở địa phương. Do đó phải được xử lý nghiêm M6 nhằm giáo dục cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo thấy rằng:

- Đối với bị cáo Phạm Thị H phạm tội “Giết người”: Bị cáo tham gia với vài trò đồng phạm giúp sức về mặt tinh thần; tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo khai báo thật thà, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo là phụ nữ đang nuôi hai con còn nhỏ, cả hai vợ chồng bị cáo đều trong cùng vụ án, bị cáo không có hành vi trực tiếp tham gia cùng đồng bọn, vai trò thấp hơn so với các bị cáo khác, nhưng mức hình phạt lại có phần nghiêm khắc là chưa đảm bảo việc phân hóa về đồng phạm, tại phiên tòa luật sư và đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo giảm một phần hình phạt cho bị cáo Phạm Thị H .

- Đối với bị cáo Ngô Duy T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”: Trong vụ án này nguyên nhân xảy ra sự việc là chính do T và M gây nên khi tốp T2, Đ, T3 đi vào quán; T , M còn thách thức còn chặn xe tốp của T2. Trong nhóm bị xử lý về tội “Gây rối trật tự công cộng”, Tòa án cấp sơ thẩm đã phân hóa đồng phạm là phù hợp, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Ngô Duy T tuy không có mặt tại phiên tòa phúc thẩm, nhưng trong suốt thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm cũng không nộp bổ sung được những tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ để xem xét kháng cáo của bị cáo Ngô Duy T.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị H ; đề nghị của luật sư và đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H7; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo của bị cáo T là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[5]. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Ngô Duy T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[6]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 355, Điều 356, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị H , không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Duy T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương như sau:

1.1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 17, Điều 57, Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Thị H 06 (sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2020.

1.2. Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Duy T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Án phí: Bị cáo Phạm Thị H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Ngô Duy T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 505/2021/HSPT

Số hiệu:505/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về